Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 116/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 74/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/6/2022, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim Ng, sinh năm 1989; thường trú: Số 21/4 khu phố Đ, phường T, thành phố A, tỉnh Bình Dương; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1988; thường trú: Số 46/2 khu phố L, phường D, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/4/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Kim Ngọc trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Th chị T sau một thời gian quen nhau thì tiến tới hôn nhân, năm 2011 anh, chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, thị xã A (nay là thành phố A), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 114/2011, quyển số 02/2011 ngày 25/4/2011. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được gia đình hai bên chấp thuận. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại địa chỉ số 46/2 khu phố L, phường D, thành phố A, Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2017 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, cuộc sống không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vả. Chị Ng đã nhiều lần cố gắng để hàn gắn nhưng không được. Do không thể sống chung với nhau được nữa nên chị Ng và chị T đã sống ly thân từ tháng 09/2020. Nay, chị Ng xác định không còn tình cảm với chị T, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với chị T.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Th chị T có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 21/03/2013, hiện cháu Vy đang ở với chị Ng. Sau khi ly hôn chị Ng sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay chị Ng đang làm kế toán thu nhập ổn định 15.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh T: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn để làm việc, lấy lời khai; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Đồng thời, bị đơn cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì cho Tòa án.

- Tại bản tự khai ngày 06/6/2022, cháu Nguyễn Ngọc Bảo V trình bày: Trường hợp Tòa án cho bố, mẹ ly hôn cháu muốn sống cùng mẹ. Đây là ý chí tự nguyện của cháu, không ai ép buộc cháu.

- Ngày 06/6/2022, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Trần Thị Kim Ngọc và anh Nguyễn Thanh T tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án, chị Trần Thị Kim Ng không có đơn yêu cầu Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An tiến hành hòa giải. Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An, thành phố Dĩ An cũng không có thông tin trình báo về mâu thuẫn giữa vợ, chồng chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T. Vì vậy, về tình trạng quan hệ hôn nhân, nghề nghiệp, nguyên nhân mẫu thuẫn giữa anh, chị Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An không biết được.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 07/6/2022 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại phường Dĩ An, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 114/2011, quyển số 02/2011 ngày 25/4/2011 đúng với quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Chị Ng xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2017 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, cuộc sống không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vả. Chị Ng đã nhiều lần cố gắng để hàn gắn gia đình nhưng không được nên đã sống ly thân từ tháng 09/2020. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An nhưng Hội liên hiệp phụ nữ không biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập chị T đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị T không đến, đồng thời chị Ng có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị Ng là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Trần Thị Kim Ng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 21/03/2013.

Xét thấy, cháu V hiện đang sống cùng chị Ng và cháu có nguyện vọng được sống cùng mẹ khi bố, mẹ ly hôn. Quá trình tố tụng, chị T không có ý kiến gì về việc chị Ng yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo V cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị Ng không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị Ng nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Kim Ng phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Kim Ng về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh T.

1.1 Về hôn nhân: Chị Trần Thị Kim Ng được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T (Giấy chứng nhận kết hôn số 114/2011, quyển số 02/2011 do Ủy ban nhân dân phường Dĩ An, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương cấp ngày 25/4/2011).

1.2 Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 21/03/2013 cho chị Trần Thị Kim Ng trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Trần Thị Kim Ng không yêu cầu anh Nguyễn Thanh T cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Kim Ng phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003785 ngày 28/04/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự .

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 116/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:116/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về