Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 112/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 112/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28/12/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 438/2023/TLST-HNGĐ ngày 26/10/2023 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 30/11/2023; quyết định hoãn phiên tòa số 77/2023/QĐST-HNGĐ ngày 14/12/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Văn H, sinh năm 1997; địa chỉ: thôn C, xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Dương Thị H1, sinh năm 1997; địa chỉ: thôn L, xã P, huyện S, tỉnh T (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Bùi Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Dương Thị H1 đăng ký kết hôn ngày 02/4/2021 tại UBND xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, không bị ai ép buộc; được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống với nhau tại thôn C, xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc bình thường. Đến khoảng đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do không có tiếng nói chung. Hai bên gia đình cũng đã hoà giải nhiều lần nhưng không thành. Chị H1 đã về nhà ngoại ở thôn L, xã P, huyện S, tỉnh T từ đầu năm 2022, vợ chồng anh sống ly thân từ đó tới nay, không quan tâm, chăm sóc gì tới nhau nữa. Nay, anh nhận thấy không còn tình cảm với chị H1 và không muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân này nữa nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện S giải quyết cho anh được ly hôn với chị Dương Thị H1.

Về con chung: Anh và chị H1 có 01 con chung là cháu Bùi Thị K, sinh ngày 07/8/2021, hiện nay cháu đang ở cùng với anh. Khi ly hôn anh đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K, không yêu cầu chị H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Anh H xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng chị Dương Thị H1 trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.

Theo lời khai của bà Phạm Thị Thanh (là mẹ ruột của chị H1) thì chị H1 và anh H có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật vào năm 2021. Sau ngày cưới anh chị làm ăn, sinh sống tại thôn C, xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc cho đến khoảng năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Khi xảy ra mâu thuẫn anh chị có đánh cãi chửi nhau và thường xuyên xích mích, cãi cọ nhau, cuộc sống không có hạnh phúc, không hoà hợp. Từ tháng 03 năm 2022 chị H1 về nhà vợ chồng bà ở và ly thân với anh H từ đó đến nay. Anh H và chị H1 có 01 con chung là cháu Bùi Thị K, sinh năm 2021, cháu vẫn ở cùng với anh H từ nhỏ tới nay. Chị H1 có 01 con riêng với người chồng trước (đã ly hôn) là cháu Khổng Thị Anh Z, sinh năm 2018, hiện chị H1 là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Z. Gia đình bà có nhận được các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án và đã thông báo cho chị H1 biết, chị H1 đã biết việc Toà án đang giải quyết vụ án ly hôn nhưng do chị đang đi làm xa nên không về giải quyết được, chị H1 có thông tin Toà án cứ giải quyết theo quy định pháp luật, cháu K để cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H1 được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Bùi Văn H được ly hôn với chị Dương Thị H1.

- Về con chung: Giao cháu Bùi Thị K, sinh ngày 07/8/2021 cho anh Bùi Văn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Dương Thị H1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Anh Bùi Văn H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Anh Bùi Văn H và chị Dương Thị H1 kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02/4/2021 tại UBND xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Kết quả xác minh xác định chị Dương Thị H1 có hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã P, huyện S, tỉnh T. Hiện chị H1 đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ cụ thể nên không rõ chị H1 ở đâu làm gì nhưng chị H1 vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình.

Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện S.

[3] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập chị H1 đến Tòa án để giải quyết, gia đình chị H1 đã thông báo cho chị H1 nhưng chị H1 vẫn không về, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ. Như vậy, chị H1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của anh Bùi Văn H, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị H1 và anh H xác định: Chị H1 và anh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 02/4/2021 tại UBND xã Đ, huyện Tam Dương, tỉnh V là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do cả hai không cùng chung sống, không quan tâm đến nhau và đã ly thân từ năm 2022 nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ.

Bản thân anh H xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, chị H1 không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy chị H1 cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ. Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa anh H và chị H1 đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của anh H là chính đáng và có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của anh Bùi Văn H là xử cho anh H được ly hôn với chị H1.

[5] Về con chung, HĐXX nhận định: Anh H và chị H1 có 01 con chung là cháu Bùi Thị K, sinh ngày 07/8/2021. Xét thấy, cháu còn nhỏ, hiện đang ở cùng với anh H, anh H hiện có nơi cư trú ổn định; chị H1 không có địa chỉ cư trú rõ ràng và hiện đang nuôi cháu Khổng Thị Anh Z, nên cần giao cháu K cho anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Bùi Thị K, sinh ngày 07/8/2021 cho anh Bùi Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Dương Thị H1 không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Anh H xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Anh H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Chị H1 không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Văn H về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với chị Dương Thị H1.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Văn H được ly hôn với chị Dương Thị H1.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Thị K, sinh ngày 07/8/2021 cho anh Bùi Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Dương Thị H1 không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Bùi Văn H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 000000743204 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam ngày 26 tháng 10 năm 2023 và biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001165, ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh T.

Chị Dương Thị H1 không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 112/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:112/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về