Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 09/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2020/TLST- HNGĐ ngày 06/10/2020 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kiều Trang, sinh năm 1987;

Nơi ĐKHKTT: thôn H, xã Gi, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

Hiện ở tại: khu phố 6, thị trấn C, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn S, sinh năm 1984;

Địa chỉ: thôn H, xã Gi, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 20/7/2020 cũng như ý kiến tại tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị ITrần Thị KiềuTr trình bày: Chị Trần Thị Kiều Tr và anh Hoàng Văn S yêu nhau và kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày 06 tháng 01 năm 2014 tại UBND xã Gi, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc; nhưng sau đó một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chính xuất phát từ quan điểm sống không hợp nhau, hay cải vả nhau, không có tiếng nói chung trong gia đình, tình cảm vợ chồng không hàn gắn được và sống ly thân gần một năm nay. Vì vậy, chị Tr thấy tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn khởi kiện đến Tòa án xin ly hôn với anh Hoàng Văn S.

- Về con chung: Chị Trần Thị Kiều Tr và anh Hoàng Văn S có một con chung tên là Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị được ly hôn, chị Tr có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cháu D. Yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Nay,chị Trần Thị Kiều Tr rút yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu anh Hoàng Văn S cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 08/10/2020 anh Hoàng Văn S trình bày: Tình cảm vợ chồng không còn, chị Tr xin ly hôn thì anh S đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên là Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn anh Hoàng Văn S có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu D và không yêu cầu chị Tr phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm này, anh Hoàng Văn S thừa nhận vợ chồng hiện không sống cùng nhau, tình cảm không còn nhưng anh S không bao giờ bỏ vợ, bỏ con. Trường hợp chị Tr cương quyết ly hôn thì tùy vào quyết định của chị Tr nhưng anh cương quyết giữ nguyên nguyện vọng được nuôi cháu Hoàng Tiến D.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: Trong quá trình gải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho chị Trần Thị Kiều Tr được ly hôn anh Hoàng Văn S. Giao cháu Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014 cho chị Trần Thị Kiều Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh S không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: chị Trần Thị Kiều Tr phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng : Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn anh Hoàng Văn S có bản tự khai gửi Tòa án nhưng hai lần không tham gia phiên tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Tòa án đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử và đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị Kiều Tr và anh Hoàng Văn S đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đúng pháp luật tại UBND xã Gi, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Trong qúa trình chung sống theo chị Tr vợ chồng chỉ hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Hiện chị Tr và anh S đã sống ly thân. Chị Tr xin được ly hôn anh S. Tại phiên tòa hôm nay, anh S thừa nhận dù bản thân anh đã rất cố gắng nhưng không đạt được kết quả,tình cảm vợ chồng không được duy trì như mong muốn. Quá trình xác minh tại thôn trưởng thôn H và chi Hội trưởng chi hội phụ nữ thôn H thì được biết: Cuộc sống của vợ chồng giữa chị Trvà anh S có mâu thuẫn xảy ra, hiện tại chị Trvà anh S không sống chung với nhau, chị Tr đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống gần một năm nay.

Như vậy có thể thấy, giữa chị Tr và anh S không sống chung với nhau, không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt; tình cảm giữa vợ chồng.

Xét thấy tình cảm giữa chị Tr và anh S không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, xử cho chị Trần Thị Kiều Tr được ly hôn anh Hoàng Văn S.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị Trần Thị Kiều Tr và anh Hoàng Văn S có 01 con chung là cháu Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014. Cả chị Tr và anh S đều có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Thấy răng, cả anh S, chị Tr đều có chỗ ở và thu nhập ổn định. Tuy nhiên, anh S cũng thừa nhận là từ nhỏ đến nay cháu D ở với chị Tr. Chị Tr là giáo viên mầm non tại Thị trấn C nên cháu D đã học mần non tại đây, hiện cháu đang học lớp 1, trường tiểu học thị trấn C và cháu D đang ở với chị Tr. Xuất phát từ quyền lợi của cháu D, xét cần giao cháu Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014 cho chị Trần Thị Kiều Tr chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị Kiều Tr phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, các Điều 266, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Kiều Tr ly hôn anh Hoàng Văn S 2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Tiến D, sinh ngày 30/9/2014 cho chị Trần Thị Kiều Tr trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Kiều Tr phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000771 ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh. Chị Tr đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 09/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về