Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA GRAI, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 18/2022/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Cẩm T, sinh năm 1997, nơi thường trú: Thôn Th, xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai, nơi tạm trú: Số 166, đường Tr, phường 8, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

2. Bị đơn: A Lê Tuấn A, sinh năm 1993, nơi cư trú: Thôn Lập Thành, xã Ia Y, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ghi ngày 07/01/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Cẩm T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Võ Thị Cẩm T và anh Lê Tuấn A tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Ia Yok theo Giấy chứng nhận kết hôn số 31/2016 ngày 21/6/2016. Sau khi kết hôn 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân áp lực công việc và tiền bạc nên thường xuyên xích mích cải nhau. Đến khoảng tháng 11/2020, vợ chồng sống ly thân và đến tháng 3/2021, chị T chuyển đến thành phố Đà Lạt làm việc. Kể từ khi ly thân, vợ chồng ít khi hỏi thăm nhau và gia đình hai bên cũng thống nhất để hai vợ chồng ly hôn, có cuộc sống mới. Chị T yêu cầu được ly hôn với anh A.

Về con chung: Chị T và anh A có 01 con là cháu Lê Tường V, sinh ngày 01/01/2017, hiện đang chung sống với chị T. Chị T làm nghề buôn bán tự do, có 1 thu nhập hằng tháng 10.000.000đ, đảm bảo đủ khả năng nuôi con. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu V, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến của bị đơn là anh Lê Tuấn A: Về quan hệ hôn nhân và con chung đúng như chị T đã trình bày. Giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn kéo dài vài năm, ngày càng trầm trọng, do bất đồng quan điểm dẫn đến hay cải vả, xúc phạm lẫn nhau, không nhường nhịn nhau. Đến tháng 10/2020, hai vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. A Lê Tuấn A đồng ý yêu cầu ly hôn của chị T. Về con chung, anh A đồng ý để chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản, anh A không yêu cầu giải quyết.

- Ý kiến của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và đương sự là đúng quy định. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị T và anh A yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Chị T và anh A kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu ly hôn của chị T: Chị T và anh A đều xác định phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, không còn chung sống với nhau từ năm 2020 cho đến nay, anh A đồng ý yêu cầu ly hôn của chị T. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn hôn nhân giữa chị T và anh A đã trầm trọng, không còn chung sống với nhau trong thời gian dài, không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc chung trong gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T theo quy định tại Điều 19 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, anh A đồng ý với yêu cầu của chị T. Xét chị T đủ khả năng trực tiếp nuôi dưỡng con nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T về việc được trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. A A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, tuy nhiên phải tôn trọng, không được lạm dụng quyền thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con khi người trực tiếp nuôi không còn đủ điều kiện nuôi con theo quy định tại Điều 82, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 28, 39, 144, 147, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Áp dụng các điều 56, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Cẩm T Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Thị Cẩm T và anh Lê Tuấn A.

Về con chung: Chị Võ Thị Cẩm T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Tường V, sinh ngày 01/01/2017, cho đến khi con thành niên, đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

A Lê Tuấn A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi chị Võ Thị Cẩm T không còn đảm bảo điều kiện trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Chị Võ Thị Cẩm T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0008479 ngày 23/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về