Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 01/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 01/2023/HNGĐ-PT NGÀY 13/02/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong các ngày 10 và 13 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2023/TLPT- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2022, về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, do Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2023/QĐ-PT ngày 30 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Tường L, sinh năm 1993; Địa chỉ cư trú: KpM, phường PT, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

- Bị đơn: Bà Trương Mỹ H, sinh năm 1993; Địa chỉ cư trú: Tổ B, thôn DB, xã HK, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Trương Mỹ H. Tất cả các đương sự có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Trần Tường L trình bày:

Ông và bà Trương Mỹ H đăng ký kết hôn tại UBND phường PT, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận vào ngày 08/11/2016 và chung sống tại nhà cha mẹ của ông tại kpM, phường PT, thành phố Phan Thiết. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, không xảy ra mâu thuẫn gì. Càng về sau thì vợ ông nảy sinh nhiều thói hư tật xấu, ông đã cố gắng dàn xếp nhưng không thành, nên vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bắt nguồn từ việc vợ ông không lắng nghe và tiếp thu ý kiến của mọi người xung quanh, thường xuyên tranh cãi với ông, vô lễ với cha mẹ chồng, thậm chí xưng tao với mẹ của ông. Ngoài ra, vợ ông thường xuyên truyền bá những thông tin sai lệch, không tốt về ông và gia đình tới hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp và cấp trên nơi ông công tác. Bên cạnh đó là bất đồng về việc chăm sóc, giáo dục các con. Hai bên đã nhiều lần nói chuyện nhưng không thể dung hòa, tình cảm dần nhạt phai khi mâu thuẫn tăng cao. Mỗi lần xảy ra mâu thuẫn, vợ ông thường hay đánh đập các con và đưa các con đi một thời gian dài dù các con đang bệnh hay đang trong thời gian học. Các ngày giáp Tết Tân Sửu năm 2021, vợ ông vẫn đi xuyên suốt tới tối và không quan tâm bất kỳ việc gì trong gia đình hay các con. Chiều 29 Tết, ông chuyển khoản để mua cặp, quần áo cho các con để đi học sau Tết và vợ ông đi làm tóc đến tối, mọi thứ vẫn bình thường. Tuy nhiên, 06 giờ sáng 30 Tết, vợ ông gọi các con dậy, dù các con đang ngủ, vợ ông vẫn dẫn các con xuống nhà thay đồ và có ý định chở các con đi, ông hỏi chở các con đi đâu khi còn quá sớm và các con còn chưa ăn sáng, vợ ông không nói gì mặc cho ông hỏi nhiều lần và dẫn các con ra xe, cha ông can thiệp góp ý, vợ ông bắt đầu la hét ầm ĩ, văng tục chửi thề trước nhà, bà con hàng xóm sang góp ý can ngăn nhưng vợ ông một mực dùng những câu từ vượt mức để đáp trả mọi người. Sau đó, vợ ông dùng xe mô tô chở 02 con đi về nhà ngoại từ đó cho đến nay. Trong thời gian vợ ông bỏ đi, ông vẫn chu cấp tiền nuôi con, chỉ sau khi bà H làm đơn xin ly hôn lên Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết thì ông mới không chu cấp nữa, vì số tiền này bà H dùng vào mục đích khác; Ông nhiều lần đến thăm con chung tại Trường Mẫu giáo các cháu đang học nhưng bà H ngăn cản, dặn cô giáo không cho cha con gặp nhau nếu không sẽ gây khó dễ với cô giáo và nhà trường.

Tới thời điểm hiện tại, vợ chồng ông đã ly thân được hơn 01 năm, nhận thấy không thể dung hòa, tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống nên ông làm đơn yêu cầu được ly hôn với bà Trương Mỹ H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Tuấn T (sinh ngày 23/02/2017) và Trần Nhã T (sinh ngày 14/6/2018). Các con hiện đang sống với bà H tại thôn DB, xã HK, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Ông yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung. Lý do ông yêu cầu được nuôi cả 02 con chung là hiện nay ông đang làm nhân viên ngân hàng, có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc con; Hơn nữa, để cho các cháu được tiếp xúc với môi trường y tế và giáo dục tốt nhất có thể nhằm phát triển toàn diện trong tương lai, vì gia đình ông hiện nay đang ở thành phố Phan Thiết. Ông không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Trương Mỹ H trình bày:

Bà và ông Trần Tường L sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường PT, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận vào ngày 08/11/2016. Thời gian đầu sống chung, vợ chồng sống rất hạnh phúc, tuy có những mâu thuẫn nhỏ nhưng vợ chồng có thể bỏ qua cho nhau. Cách đây khoảng 02 năm thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do vợ chồng cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn, vợ chồng không ai nói với ai, có lần vợ chồng cãi nhau về việc chăm sóc con cái thì ông L đã đánh bà, tổng cộng là 03 lần. Ngày 11/02/2021, vợ chồng bà cãi nhau lời qua tiếng lại, bà cảm thấy không thể nào sống chung được nên ngày hôm đó bà đã chở 02 con chung về nhà ba mẹ bà sống cho đến nay. Từ đó đến nay, vợ chồng bà sống ly thân, bà có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng và đề nghị ông L ra sống riêng để cuộc sống vợ chồng thoải mái hơn nhưng chồng bà không đồng ý.

Hiện nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn chung sống hạnh phúc được nên bà đồng ý ly hôn với ông Trần Tường L, với điều kiện bà được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung. Bà hiện nay đang kinh doanh tự do, mua bán bất động sản, có công việc, có thu nhập ổn định với mức thu nhập khoảng 10 triệu đến 15 triệu đồng/tháng. Từ khi không sống chung với ông L đến nay, mặc dù ông L không trợ cấp nuôi con nhưng bản thân bà vẫn chăm sóc tốt cho hai con, vẫn cho đi học và đóng góp các khoản cho nhà trường đầy đủ. Bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã quyết định:

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 269, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Tường L, ông Trần Tường L được ly hôn với bà Trương Mỹ H.

2. Về con chung: Bà Trương Mỹ H phải giao cháu Trần Tuấn T (sinh ngày 23/02/2017) cho ông Trần Tường L chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành.

Giao cháu Trần Nhã T (sinh ngày 14/6/2018) cho bà Trương Mỹ H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trưởng thành.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng tiền nuôi con chung: Ông Trần Tường L và bà Trương Mỹ H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/10/2022, bị đơn bà Trương Mỹ H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về con chung, đề nghị sửa án sơ thẩm và giao cả 02 con cho bà H nuôi dưỡng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị đơn bà Trương Mỹ H giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án sơ thẩm, giao cả 02 con chung cho bà nuôi dưỡng. Vì từ khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra, bà dẫn 02 con về nhà cha mẹ ruột sinh sống đến nay, một mình bà nuôi con, ông L chưa từng hỗ trợ bà nuôi con, nhưng các con vẫn được học hành đầy đủ, phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, nếu giao cho mỗi người nuôi 01 con sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm của các con.

- Nguyên đơn ông Trần Tường L không đồng ý kháng cáo của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm y án sơ thẩm.

- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

1. Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

2. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trương Mỹ H; Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, giao cả 02 con chung cho bà Trương Mỹ H tiếp tục nuôi dưỡng. Vì từ khi vợ chồng ly thân đến nay, bà Trương Mỹ H là người trực tiếp nuôi cả 02 con, vẫn đảm bảo cuộc sống của các con và hiện 02 con vẫn còn nhỏ (4-5 tuổi) nên để bà H chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến trình bày và tranh luận tại phiên tòa của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

1. ….

2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” [2] Xét về điều kiện nuôi con thì cả bà Trương Mỹ H và ông Trần Tường L đều đảm bảo việc nuôi con. Tuy nhiên, xét nghề nghiệp và mức thu nhập của bà Trương Mỹ H là chưa ổn định, phần nào sẽ khó khăn trong việc nuôi cả 02 con. Trong khi đó, ông Trần Tường L hiện làm nhân viên ngân hàng, công việc và mức thu nhập ổn định, là con một trong gia đình và đang sống cùng cha mẹ ruột.

[3] Vì vậy, cân nhắc về mọi mặt, Toà án cấp sơ thẩm quyết định giao cho mỗi người nuôi một con, trong đó con trai lớn là cháu Trần Tuấn T (sinh ngày 23/02/2017) giao cho ông Trần Tường L nuôi dưỡng, giao con gái nhỏ Trần Nhã T (sinh ngày 14/6/2018) cho bà Trương Mỹ H nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp.

[4] Đối với ý kiến của bà Trương Mỹ H và quan điểm của Kiểm sát viên cho rằng nếu giao cho mỗi người nuôi 01 con sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm của các cháu, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trước khi vợ chồng ông L, bà H ly thân thì vợ chồng và 02 con đều sống chung tại nhà cha mẹ ruột của ông L. Ngoài ra, vấn đề tình cảm anh em giữa các con với nhau không chỉ ở việc các con sống chung cùng nhau, mà sau khi ly hôn, nếu giao cho mỗi người nuôi 01 con, tình cảm và sự phát triển tâm lý giữa anh em với nhau có gắn kết hay không còn phụ thuộc rất lớn vào cách giáo dục, nuôi dưỡng con và cách xử sự của cha mẹ có tạo điều kiện cho các con gặp gỡ nhau thường xuyên hay không.

[5] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trương Mỹ H và quan điểm của Kiểm sát viên, nên giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị của nguyên đơn ông Trần Tường L.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn bà Trương Mỹ H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ- ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trương Mỹ H; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam về phần con chung;

Áp dụng: Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

- Về con chung: Giao cháu Trần Nhã T (sinh ngày 14/6/2018) cho bà Trương Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Trần Tuấn T (sinh ngày 23/02/2017) cho ông Trần Tường L trực tiếp nuôi dưỡng; Buộc bà Trương Mỹ H phải giao cháu Trần Tuấn T (sinh ngày 23/02/2017) cho ông Trần Tường L.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của các bên đương sự: Tạm thời không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí phúc thẩm: Buộc bà Trương Mỹ H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0006604 ngày 06/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Nam; Bà Trương Mỹ H đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2022/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi thành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 01/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:01/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về