TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 49/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 05/3/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2024/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 01 năm 2024, về việc: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13a/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/02/2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2024/QĐHPT –HNGĐ ngày 19/02/2024, giữa:
* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1991
* Bị đơn: Anh Nịnh Văn T, sinh năm 1981
Cùng địa chỉ: Thôn Đồng Rôm, xã N, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.
(Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nịnh Văn T đăng ký kết hôn vào ngày 23/01/2013 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, việc đăng ký trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống tại thôn Đồng Rôm, xã N, huyện Y. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận, đến tháng 8/2023 vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn và đến nay mâu thuẫn đã rất trầm trọng, chị và anh T sống ly thân từ tháng 8/2023 đến nay. Nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, chị xác định vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng nhau nên chị làm đơn này đề nghị Tòa án nhân dân huyện Y giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nịnh Văn T.
Về con chung: Chị và anh Nịnh Văn T có 01 con chung là cháu Nịnh Quang H, sinh ngày 04/8/2014, hiện cháu H đang ở với chị, khi ly hôn chị yêu cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh Nịnh Văn T không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên anh T không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không tiến hành hòa giải được. Chị H có đơn từ chối hòa giải.
Trong đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên toà, Chị H giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Y phát biểu quan điểm: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Đề nghị HĐXX: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H, xử cho Chị H được ly hôn với anh Nịnh Văn T. Về con chung: Giao cháu Nịnh Quang H, sinh ngày 04/8/2014 cho Chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị H và anh T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: kết quả xác minh xác định anh Nịnh Văn T hiện đang cư trú tại xã N, huyện Y. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Y.
[3] Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H, HĐXX nhận định:
[4.1] Đối với yêu cầu xin ly hôn với anh Nịnh Văn T: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi anh T đang sinh sống thường xuyên xác định: Chị H và anh T kết hôn từ năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống chung tại thôn Đồng Rôm, xã N, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống vợ chồng anh chị hạnh phúc đến năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn cụ thể địa phương không nắm được. Bản thân Chị H xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, nguyên nhân mâu thuẫn theo Chị H xác định do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh T cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ. Chị H và anh T đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Tình trạng mâu thuẫn giữa Chị H và anh T cũng được chính quyền đại phương xác nhận.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa Chị H và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của Chị H là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4.2] Đối với yêu cầu được giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Chị H và anh T có 01 con chung là cháu Nịnh Quang H, sinh ngày 04/8/2014, hiện cháu H đang ở cùng chị Hải. Anh T giấu địa chỉ, không rõ nghề nghiệp, mức thu nhập và không có văn bản trình bày nguyện vọng nuôi con. Bản thân Chị H có nguyện vọng được nuôi con, Chị H có thu nhập ổn định từ 200.000 đồng đến 250.000 đồng/ 1 ngày, có chỗ ở ổn định. Cháu H trên 7 tuổi có nguyện vọng được ở với mẹ. Tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương có ý kiến, trong hoàn cảnh của Chị H thì Toà án nên giao cháu H cho Chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Từ những căn cứ trên, HĐXX xét thấy yêu cầu được quyền nuôi con của Chị H là có căn cứ cần chấp nhận. Do Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
[5] Về tài sản, đất đai, nợ chung: Chị H xác định không có.
[6] Về án phí: Chị H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh T không phải nộp án phí.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H về việc Tranh chấp ly hôn, giao nuôi con khi ly hôn đối với anh Nịnh Văn T.
1. Về quan hệ hôn nhân: chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Nịnh Văn T.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nịnh Quang H, sinh ngày 04/8/2014 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: chị Hoàng Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000000907729 ngày 15/01/2024 của Công ty Cổ phần thanh toán Quốc gia Việt Nam và theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001086 ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Anh Nịnh Văn T không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 49/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 49/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về