Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23/6/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2022/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 23/5/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/ST-HNGĐ ngày 07/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Y, sinh năm 1997.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1990.

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

(Chị Y có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ tổ chức lễ cưới vào năm 2015. Tuy nhiên, anh chị không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định. Sau ngày cưới hai vợ chồng anh chị cùng làm ăn sinh sống tại thôn T, xã Q, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được, do chị và anh Đ không đăng ký kết hôn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị Y và anh Đ có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu T, còn cháu A chị muốn giao cháu cho anh Đ nuôi dưỡng, giáo dục. Chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: chị Y xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đ trốn tránh, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/5/2022, bà Nguyễn Thị H (Bà H là mẹ đẻ của anh Đ) là người làm chứng trình bày:

Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị Y và anh Đ như chị Y trình bày là đúng. Khoảng đầu năm 2019 giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn bà không nắm rõ. Chị Y và anh Đ hiện nay vẫn đang ở cùng nhau. Anh Đ làm nghề lái tàu nên thường xuyên vắng nhà, các thông báo Toà án gửi đến bà cũng thông báo lại cho anh Đ biết.

Về con chung vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019. Hiện nay các cháu đều đang ở cùng vợ chồng chị Y và anh Đ. Việc giao nuôi con chung theo bà nên để cho vợ chồng anh chị tự thỏa thuận bà không có ý kiến gì về việc chia giao con chung khi ly hôn.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, 15, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Y, không công nhận chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ là vợ chồng. Giao cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019 cho Chị Phan Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Phan Thị Y phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Phan Thị Y khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: kết quả xác minh xác định anh Nguyễn Văn Đ đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại thôn T, xã Q, huyện Sơn Dương. Vì vậy, căn cứ khoản 1, điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Chị Phan Thị Y có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1, khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Y, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương: Từ năm 2015 đến nay, không có trường hợp nào có tên chồng là Nguyễn Văn Đ, vợ là Phan Thị Y đăng ký kết hôn.

Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”.

Chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau từ năm 2015 đến nay không có đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn, xong các bên không thực hiện nghĩa vụ kết hôn mà vẫn chung sống cùng nhau là hôn nhân bất hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do vậy, HĐXX cần xử không công nhận chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ là vợ chồng.

[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 và cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019. Tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”. Chị Y có quan điểm nhận trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cháu T, còn cháu A chị muốn giao cháu cho anh Đ nuôi dưỡng, giáo dục và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy quan điểm của các đương sự là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, do vậy HĐXX chấp nhận giao cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019 cho Chị Phan Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị Y không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Phan Thị Y phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Văn Đ không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Y về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Nguyễn Văn Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Phan Thị Y và anh Nguyễn Văn Đ là vợ chồng.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Khánh A, sinh ngày 28/3/2016 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/11/2019 cho Chị Phan Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phan Thị Y phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002028 ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Nguyễn Văn Đ không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về