TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 47/2024/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 01/3/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 334/2023/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 11 năm 2023, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 30/01/2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 07a/2024/QĐHPT –HNGĐ ngày 15/02/2024, giữa:
* Nguyên đơn: anh Phạm Minh V, sinh năm 1990
Địa chỉ: Xóm 11, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên
* Bị đơn: chị Mễ Thị H, sinh năm 1996.
Địa chỉ: thôn Thống Nhất, xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.
(Anh V có đơn xin xét xử vắng mặt, chị H vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Phạm Minh V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Mễ Thị H đăng ký kết hôn vào ngày 14/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, việc đăng ký trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng anh sống cùng gia đình nhà anh tại Thái Nguyên. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận, đến năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, hiện nay mâu thuẫn đã rất trầm trọng, chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Thống Nhất, xã T, huyện Y sinh sống, anh và chị H sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, anh xác định vợ chồng không còn yêu thương, tôn trọng nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh làm đơn này đề nghị Tòa án nhân dân huyện Y giải quyết cho anh được ly hôn với chị Mễ Thị H.
Về con chung: Anh và chị Mễ Thị H có 01 con chung là cháu Phạm Minh P, sinh ngày 17/3/2019, hiện cháu P đang ở với anh, khi ly hôn anh yêu cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị Mễ Thị H không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên chị H không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không tiến hành hòa giải được. Anh V có đơn từ chối hòa giải.
Trong đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên toà, Anh V giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Y phát biểu quan điểm: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Đề nghị HĐXX: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Minh V, xử cho Anh V được ly hôn với chị Mễ Thị H. Về con chung: Giao cháu Phạm Minh P, sinh ngày 17/3/2019 cho Anh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, Anh V không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung nên chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Anh V xác định không có. Về án phí: Anh V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh V và chị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Anh V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: kết quả xác minh xác định chị Mễ Thị H hiện đang cư trú tại xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Y.
[3] Chị H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, Anh V có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Minh V, HĐXX nhận định:
[4.1] Đối với yêu cầu xin ly hôn với chị Mễ Thị H: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H đang sinh sống xác định: Anh V và chị H kết hôn từ năm 2019. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống chung tại xóm 11, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Cuộc sống vợ chồng anh chị hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn cụ thể địa phương không nắm được. Bản thân Anh V xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Nguyên nhân mâu thuẫn theo Anh V xác định do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, chị H không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy chị H cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ. Anh V và chị H đã sống ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai. Tình trạng mâu thuẫn giữa Anh V và chị H cũng được chính quyền địa phương xác nhận.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa Anh V và chị H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của Anh V là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4.2] Đối với yêu cầu được giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Anh V và chị H có 01 con chung là cháu Phạm Minh P, sinh ngày 17/3/2019, hiện cháu P đang ở cùng Anh V. Chị H giấu địa chỉ, không rõ nghề nghiệp, mức thu nhập và không có văn bản trình bày nguyện vọng nuôi con. Bản thân Anh V có nguyện vọng được nuôi con, Anh V có thu nhập ổn định từ 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/1 tháng, có chỗ ở ổn định. Tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương có ý kiến, trong hoàn cảnh của Anh V thì Toà án nên giao cháu P cho Anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Từ những căn cứ trên, HĐXX xét thấy yêu cầu được quyền nuôi con của Anh V là có căn cứ cần được chấp nhận. Do Anh V không yêu cầu cấp dưỡng nên chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
[5] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Anh V xác định không có.
[6] Về án phí: Anh V phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Chị H không phải nộp án phí.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Minh V về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với chị Mễ Thị H.
1. Về quan hệ hôn nhân: anh Phạm Minh V được ly hôn chị Mễ Thị H.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm Minh P, sinh ngày 17/3/2019 cho anh Phạm Minh V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung (Anh V không yêu cầu) và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: anh Phạm Minh V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000000802039 ngày 23/11/2023 của Công ty Cổ phần thanh toán Quốc gia Việt Nam và theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001010 ngày 23 tháng 11 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Chị Mễ Thị H không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 47/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 47/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về