Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 28/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 06/4/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 561/2021/TLST- HNGĐ, ngày 16 tháng 12 năm 2021 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 07/3/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23/3/3022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vương Thị C, sinh năm 1984.

- Bị đơn: Anh Ban Văn T, sinh năm 1980.

Cùng địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

( Chị Vương Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Ban Văn T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Vương Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Ban Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/7/2002 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại thôn L, xã Đ, huyện Sơn Dương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2016 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Bản thân anh T cũng không chịu khó làm ăn mà thường xuyên chơi bời, cờ bạc. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Anh chị có 03 con chung là cháu Ban Thị Anh Đ, sinh ngày 17/9/2003; cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007. Hiện nay cháu Đ đã trưởng thành chị không đề nghị Tòa án giải quyết, còn cháu Ban Thị P và cháu Ban Thị N chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Ban Văn T trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/02/2022, bà Lâm Thị S (bà S là chị dâu của anh Ban Văn T) là người làm chứng trình bày:

Chị Vương Thị C và anh Ban Văn T kết hôn vào năm 2002. Sau ngày cưới, chị C và anh T về chung sống tại thôn L, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian chung sống giữa anh chị bình thường nhưng đến năm 2016 chị C đi làm ăn xa nhà cũng không còn quan tâm nhiều đến gia đình. Anh T hiện nay làm nghề mộc cũng thường xuyên vắng nhà.

Về con chung vợ chồng anh chị có ba con chung là cháu Ban Thị Anh Đ, sinh ngày 17/9/2003; cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007. Hiện nay cháu Đ đã trưởng thành. Việc giao nuôi con chung theo bà nên để cho các cháu tự quyết định và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vương Thị C, xử cho chị Vương Thị C được ly hôn với anh Ban Văn T. Giao cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007 cho chị Vương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Ban Văn T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị C xác định không có nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị C phải chịu án phí, các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Vương Thị C và anh Ban Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Vương Thị C và anh Ban Văn T đều đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn L, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Chị Vương Thị C có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Ban Văn T được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Vương Thị C, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị C và anh T xác định: Chị C và anh T kết hôn vào năm 2002. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn L, xã Đ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2016 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Bản thân chị C xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh T cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị C là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị Vương Thị C có quan điểm muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Bản thân cháu Ban Thị P, sinh năm 2005 và cháu Ban Thị N, sinh năm 2007 đều thể hiện nguyện vọng muốn được ở với chị C. Qúa trình xác minh tại địa phương thể hiện: Chị C và anh T có 03 con chung là cháu Ban Thị Anh Đ, sinh ngày 17/9/2003; cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007. Hiện nay cháu Đ đã trưởng thành và lập gia đình, còn cháu P, cháu N đang ở cùng vợ chồng chị C, anh T. Theo chính quyền địa phương nên giao cả hai cháu cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007 cho chị Vương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Ban Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con, anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị Vương Thị C xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Vương Thị C phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Ban Văn T không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vương Thị C về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Ban Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vương Thị C được ly hôn với anh Ban Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Ban Thị P, sinh ngày 24/8/2005 và cháu Ban Thị N, sinh ngày 24/8/2007 cho chị Vương Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Ban Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con, anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vương Thị C phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001865 ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Ban Văn T không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về