Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 237/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 237/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 327/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 293/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 276/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Lệ Q, sinh năm 1985 Địa chỉ: Ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: Số nhà 869, ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1980 Địa chỉ: Số 125, ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị Lệ Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh C tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ngày 06/4/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại nhà cha mẹ anh C tại địa chỉ: Số 125, ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang. Vợ chồng chung sống đến khoản năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn và trở nên gay gắt từ năm 2017 cho đến nay. Lý do phát sinh mâu thuẫn vì anh C xem thường gia đình của chị Q và dùng những lời lẽ khó nghe đối với chị Q; thường xuyên nghi ngờ vô cớ chị Q có quan hệ bất chính với người khác, chị Q có giải thích nhưng anh C không tin lời chị Q và tiếp tục ghen tuông vô cớ, không phụ giúp tiền với chị Q để nuôi con chung. Anh C không có hành vi bạo lực gia đình đối với chị Q. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, gia đình chị Q có động viên hàn gắn tình cảm vợ chồng cho anh C, gia đình bên anh C không có động viên, hàn gắn tình cảm vợ chồng cho anh chị; bản thân vợ chồng anh chị cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nhận thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã quá trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Q yêu cầu được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/10/2007 và Nguyễn Khải Q1, sinh ngày 19/6/2010, hiện nay con chung đang sống với chị Q. Sau khi ly hôn, chị Q yêu cầu được nuôi 02 con chung, yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật với số tiền 750.000 đồng/con/tháng; thời điểm cấp dưỡng từ tháng 5/2021. Hiện nay anh C làm nhân viên bán háng của Công ty TNHH Tiến Thành (địa chỉ cụ thể thì không biết, chỉ biết ở thành phố Long Xuyên), trước đây thu nhập hàng tháng khoảng 5.500.000 đồng, còn hiện nay thì không xác định được.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Ngọc C vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Tại phiên tòa, Chị Trương Thị Lệ Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Xin rút lại yêu cầu anh Nguyễn Ngọc C cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn.

Anh Nguyễn Ngọc C vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã làm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án:

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung của chị Trương Thị Lệ Q.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Lệ Q đối với anh Nguyễn Ngọc C. Chị Trương Thị Lệ Q được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/10/2007 và Nguyễn Khải Q1, sinh ngày 19/6/2010, anh Nguyễn Ngọc C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Chị Trương Thị Lệ Q khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Ngọc C có nơi cư trú tại số 125, ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Anh Nguyễn Ngọc C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Ngọc C.

[1.3] Tại phiên tòa, chị Trương Thị Lệ Q rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu anh Nguyễn Ngọc C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn. Xét thấy, việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Lệ Q phù hợp khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Lệ Q.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Đối với quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Lệ Q và anh Nguyễn Ngọc C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ngày 06/4/2007 theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ lời trình bày của chị Trương Thị Lệ Q, vợ chồng chung sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh C thường nghi ngờ, ghen tuông vô cớ, không phụ giúp chị Q trong việc nuôi con và có lời lẽ khó nghe đối với gia đình chị Q, vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, gia đình anh C không có động viên, hàn gắn tình cảm vợ chồng cho anh chị; anh C không có liên lạc, thăm nom vợ, con. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để tiến hành hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Q và anh C nhưng anh C đều vắng mặt, xem như đã tự từ bỏ quyền của mình nên Tòa án không tiến hành hòa giải được; bản thân anh C cũng không có tác động nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng giữa anh chị, thể hiện anh C không có thiện chí níu kéo quan hệ hôn nhân giữa anh C và chị Q. Do đó, có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh C và chị Q đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị Q yêu cầu ly hôn anh C phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Đối với con chung: Chị Trương Thị Lệ Q xác định vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/10/2007 và Nguyễn Khải Q1, sinh ngày 19/6/2010, hiện nay con chung đang sống với chị Q. Sau khi ly hôn, chị Q yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, anh C đã tự từ bỏ các quyền của mình trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án và việc giao con chung chưa thành niên cho người chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn phải đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Hiện nay các con chung đang sống với chị Q từ thời điểm vợ chồng sống ly thân nên tình cảm của các cháu đã gắn liền với người nuôi dưỡng và các cháu cũng có nguyện vọng được sống với chị Q. Đồng thời, chị Q cũng có nghề nghiệp, thu nhập ổn định (giáo viên) và cũng để ổn định cuộc sống cho các con chung nên yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của chị Q phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trương Thị Lệ Q là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn nên anh Nguyễn Ngọc C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82, Điều 110, Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, chị Trương Thị Lệ Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[2.4] Đối với tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, chị Trương Thị Lệ Q phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điều 28, 35, 39, 147, 227, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn của chị Trương Thị Lệ Q.

[2] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Lệ Q.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Lệ Q được ly hôn anh Nguyễn Ngọc C.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 45, quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 06/4/2007 không còn giá trị pháp lý.

[2.2] Về con chung:

Chị Trương Thị Lệ Q được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/10/2007 và Nguyễn Khải Q1, sinh ngày 19/6/2010, hiện đang sống chung với chị Trương Thị Lệ Q.

Anh Nguyễn Ngọc C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Trương Thị Lệ Q cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Nguyễn Ngọc C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Trương Thị Lệ Q phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai số 0007639 ngày 20/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[5] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 237/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:237/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về