Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 76/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 124/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng  6 năm 2022, về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 64/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 14 tháng 9 năm 2022, giữa:

-Nguyên đơn: Bà Nguyễn Nhựt T, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: 35/2 ấp T, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

-Bị đơn: Ông Phạm Thanh N, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Số nhà 15/4, ấp X, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 6 năm 2022 và trong quá trình xét xử, bà Nguyễn Nhựt T là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Phạm Thanh N chung sống với nhau năm 2011, có đăng ký kết hôn ngày 27/5/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Vợ chồng sống hạnh phúc được 11 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai người sống không hợp nhau, thường xuyên cải vả nhau, hiện nay bà và ông N không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Thanh N.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai người con chung tên Nguyễn Nhựt A, sinh ngày 18/6/2012 và Nguyễn Nhựt Thúy V, sinh ngày 24/7/2014, hiện nay đang sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi hai người con chung, bà không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Bà cam kết không có nợ chung.

Ông Phạm Thanh N là bị đơn đã được triệp tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng  mặt không có lý do, nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Nguyễn Nhựt T xin ly hôn với ông Phạm Thanh N, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết. Ông Phạm Thanh N đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do nên cần áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với ông  Phạm Thanh N.

[2] Bà Nguyễn Nhựt T và ông Phạm Thanh N chung sống với nhau năm 2011, đến ngày 27/5/2021 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Qua lời khai trình của bà Nguyễn Nhựt T, Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà T, ông N đã phát sinh mâu thuẫn, hai người không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay nhưng không hàn gắn lại được. Bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với ông N. Ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do, không hợp tác giải quyết việc hôn nhân của các đương sự. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng cả hai không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho bà Nguyễn Nhựt T được ly hôn với ông Phạm Thanh N, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về nuôi con chung: Hai đương sự có với nhau hai người con chung tên Nguyễn Nhựt A,  sinh ngày 18/6/2012  và  Nguyễn Nhựt Thúy V,  sinh  ngày  24/7/2014, hiện nay bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp giữ nuôi hai người con chung, không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi  con. Xét thấy yêu cầu của bà T phù hợp với nguyện vọng của con chung hai đương sự nên chấp nhận. Ông N vắng mặt nên không có ý kiến về việc nuôi con và việc cấp  dưỡng nuôi con; ông N có quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con  của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: Bà T khai trình không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà T cam kết không có nợ chung, nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Nguyễn Nhựt T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày  30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Ông Phạm Thanh N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12  năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Nhựt T được ly hôn với ông Phạm Thanh N.

2. Về nuôi con chung: Khi ly hôn, bà Nguyễn Nhựt T được tiếp tục giữ nuôi hai người con tên Nguyễn Nhựt A, sinh ngày 18/6/2012 và Nguyễn Nhựt Thúy V, sinh ngày 24/7/2014, đến tuổi trưởng thành. Ông Phạm Thanh N không phải cấp dưỡng nuôi con, được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng  nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Nhựt T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Cho chuyển số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 đồng sang tiền án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0007908 ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 76/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:76/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về