Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 61/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 61/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 12 năm 2021, Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 622/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Bà Nguyễn Ý Kim P, sinh năm 1984

Nơi cư trú: phường A, quận N, thành phố CT;

Bị đơn Ông Trần Ngọc T, sinh năm 1981 

Địa chỉ: Phường L, quận B, thành phố CT.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Phn trình bày của nguyên đơn theo đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2021 và trong quá trình tố tụng như sau:

Bà Nguyễn Ý Kim P và ông Trần Ngọc T tự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ năm 2007. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, ông bà có 02 con chung là Trần Ngọc P V (nữ), sinh ngày 16/3/2009 và Trần Nguyễn Minh K (nam), sinh ngày 06/5/2013. Sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, suy nghĩ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, hôn nhân không hạnh phúc. Bà P và ông T đã không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Trần Ngọc T.

Về con chung: Giữa Bà P và ông T có 02 con chung là Trần Ngọc P V (nữ), sinh ngày 16/3/2009 và Trần Nguyễn Minh K (nam), sinh ngày 06/5/2013. Bà P đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà và ông T có tạo lập 01 căn nhà, căn nhà này đã có quyết định thu hồi và được bồi thường 573.566.540đồng, số tiền này ông Toàn giữ, bà P yêu cầu được chia đôi số tiền trên.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 12/7/2021 bà P có đơn yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần yêu cầu chia tài sản chung vì giữa Bà P và ông T đã có văn bản thỏa thuận về việc chia tài sản chung.

Đối với ông Trần Ngọc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo công khai chứng cứ và hòa giải cùng giấy triệu tập.

Do ông T vắng mặt tại phiên hòa giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai, vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do. Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn; rút phần yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về con chung giữ nguyên yêu cầu như đã trình bày.

Phn phát biểu việc tuân theo pháp luật và giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có ra thông báo thụ lý, thông báo hòa giải, thu thập chứng cứ của bị đơn đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự của phiên tòa dân sự. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và xem xét quyết định việc nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sợ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục:

Giữa bà Nguyễn Ý Kim P và ông Trần Ngọc T tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Đồng thời ông T có nơi cư trú tại địa bàn quận Bình Thủy, đây là hôn nhân hợp pháp thuộc ngành Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ .

[2] Về quan hệ tranh chấp:

Xét hôn nhân giữa bà Nguyễn Ý Kim P và ông Trần Ngọc T đã phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân theo bà P là do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống không còn hòa hợp, không tin tưởng nhau. Cuộc sống vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc và hạnh phúc như thời gian đầu chung sống.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy, quan hệ hôn n hân là sự gắn kết giữa vợ chồng, phải có sự đồng thuận tự nguyện từ hai phía phải có tình yêu thương quan tâm và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Bà P nhất quyết ly hôn với ông T vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Ông T không đến Tòa án cũng không có văn bản thể hiện ý kiến gửi đến Tòa án nên Hội đồng xét xử không ghi nhận được ý kiến của ông cũng như cho thấy ông không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng duy trì cuộc sống hôn nhân. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy chấp thuận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Ý Kim P và ông Trần Ngọc T là có cơ sở.

[4] Về con chung: Bà P và ông T có hai người con chung như đã trình bày, bà P yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Xét thấy hiện bà P đang là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, hai trẻ có văn bản thể hiện nguyện vọng được sống cùng mẹ sau khi ba mẹ ly hôn. Như vậy để bảo đảm về điều kiện nuôi dưỡng, sự phát triển về tâm sinh lý và quyền lợi cũng như sự ổn định của trẻ, Hội đồng xét xử quyết định giao hai trẻ là Trần Ngọc P V (nữ), sinh ngày 16/3/2009 và Trần Nguyễn Minh K (nam), sinh ngày 06/5/2013 cho bà P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Hội đồng xét xử dành quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung cho ông T, không ai được cản trở ông T thực hiện quyền này. Đồng thời bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con đây là sự tự nguyện của đương sự nên chấp thuận. Ông T có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu chứng minh được bà P không nuôi dưỡng con chung tốt, không đảm bảo đủ các điều kiện để các cháu phát triển toàn diện.

[5] Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2021 bà P có yêu cầu chia tài sản chung, ngày 12/7/2021 bà P có đơn yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần yêu cầu chia tài sản chung, do Bà P và ông T đã có văn bản thỏa thuận về tài sản chung. Xét thấy đây là sự tự nguyện của đương sự và không trái quy định pháp luật, đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Do ông T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Do đó tách phần yêu cầu về tài sản chung, nợ chung thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh.

[6] Về phía ông T, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và thực hiện việc tống đạt Quyết định xét xử vắng mặt theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt là tự tước đi quyền tự trình bày của mình tại Tòa án. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho người vắng mặt Hội đồng xét xử dành quyền kháng cáo cho ông T theo quy định của pháp luật.

[7] Bà Nguyễn Ý Kim P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Nguyễn Ý Kim P được ly hôn với ông Trần Ngọc T.

2. Về con chung: Giao con chung là Trần Ngọc P V (nữ), sinh ngày 16/3/2009 và Trần Nguyễn Minh K (nam), sinh ngày 06/5/2013 cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng, ông T không cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông T, không ai được cản trở quyền này.

3. Về tài sản chung: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chia tài sản chung do nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày 12/7/2021.

Về nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tách phần tài sản chung, nợ chung ra giải quyết thành vụ kiện khác khi các bên đương sự yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Ý Kim P phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp theo biên lai thu số 005273 ngày 11/6/2021 thành án phí hôn nhân sơ thẩm, bà P được nhận lại số tiền 13.471.331đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/12/2021). Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 61/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về