TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 36/2024/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 18 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2023/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2023 về tranh chấp: "Ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đặng T. H, sinh năm 19xx. Địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn E, huyện Ea H'leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: Phạm V. D, sinh năm 19xx. Địa chỉ: Ấp, xã T, huyện Đ, tỉnh G.
(chị H xin vắng mặt, anh D vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn xin ly hôn ngày 25/12/2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng T. H trình bày:
Chị và anh D quen biết tìm hiểu nhau hai năm thì tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh G (nay là xã T, huyện Đ, tỉnh G) vào năm 20xx. Sau cưới, vợ chồng đi làm ở Long An, sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 20xx thì phát sinh mâu thuẫn do anh D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị bỏ đi về nhà cha mẹ ruột chị ở, thời gian này anh D có liên lạc với chị để chăm sóc, chu cấp cho con nên chị không ly hôn, năm 20xx chị có gặp anh D để thương lượng về hôn nhân, anh D hứa rời xa người phụ nữ đó để chăm sóc chị và con nhưng anh không thực hiện, đến năm 20xx thì anh D tổ chức cưới với người phụ nữ đó, nhưng anh vẫn còn chu cấp cho con. Từ tháng 8/20xx đến nay, anh D không chu cấp cho con, không liên lạc gì với chị nữa. Do không còn tình cảm với anh D, chị yêu cầu ly hôn.
Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm N. L, sinh ngày 30/9/20xx. Cháu L đang sống chung với chị, ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
* Quá trình tố tụng bị đơn anh Phạm V. D đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng anh D không đến Tòa án để tham dự phiên hòa giải, không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không kiến nghị gì về tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng T. H, cho chị H được ly hôn với anh D. Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm N. L, sinh ngày 30/9/20xx cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đương sự là tranh chấp: "Ly hôn, nuôi con chung" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị H có đơn xin vắng mặt, bị đơn anh D vắng mặt không lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định. Trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa anh D vắng mặt là tự từ bỏ lời trình bày của đương sự tại tòa. Việc vắng mặt của anh D không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[3] Về hôn nhân: Anh D và chị H kết hôn năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Xét yêu cầu ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy, theo lời trình bày của chị: Sau khi cưới, vợ chồng đi làm ở Long An, sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do anh D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị bỏ đi về nhà cha mẹ ruột chị ở, thời gian này anh D có liên lạc với chị để chăm sóc, chu cấp cho con nên chị không ly hôn, năm 2016 chị có gặp anh D để thương lượng về hôn nhân, anh D hứa rời xa người phụ nữ đó để chăm sóc chị và con nhưng anh không thực hiện. Từ tháng 8/2023 đến nay, anh D không chu cấp cho con, không liên lạc gì với chị nữa. Về phía anh D, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng anh vẫn không đến Tòa án và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến. Cho thấy, anh không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm hàn gắn tình cảm với chị H và mặc nhiên thừa nhận vợ chồng chung sống có xảy ra những mâu thuẫn như chị H trình bày. Do hôn nhân của anh chị đã L vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị được ly hôn với anh D là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về nuôi con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Phạm N. L, sinh ngày 30/9/2006, hiện cháu đang sống với chị H. Xét yêu cầu được tiếp tục nuôi con của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu L sống cùng chị đã ổn định về mọi mặt, cháu L có nguyện vọng được sống cùng với chị; nên tiếp tục để cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L là phù hợp. Do đó, yêu cầu của chị H là có căn cứ để chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét đến.
[6] Về án phí: Chị H yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng T. H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đặng T. H được ly hôn với anh Phạm V. D.
2. Về nuôi con chung:
- Giao con chung Phạm N. L, sinh ngày 30/9/20xx cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: chị H chưa yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.
- Anh D được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung;
chị H và các thành viên gia đình không được ngăn cản.
3. Về án phí: Chị Đặng T. H phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0001559 ngày 25/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh G. Chị H đã nộp xong án phí.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 36/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 36/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú Đông - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về