Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 35/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 172/2021/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXX ngày 02 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16 ngày 15/11/2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Giang Thị T, sinh năm 1971 

Địa chỉ: Thôn V, xã X, thị xã Sơn Tây, Hà Nội; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Phùng Văn C, sinh năm 1959.

Địa chỉ: Thôn Th, xã Th, thị xã Sơn Tây, Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và các bản khai, nguyên đơn bà Giang Thị T trình bày: Bà kết hôn với ông Phùng Văn C ngày 31/7/2009 đăng ký kết hôn tại UBND xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, kết hôn tự nguyện. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc thời gian ngắn thì phát mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông C thường xuyên đánh chửi bà, ông C là người gia trưởng không chia sẻ bất cứ việc gì trong gia đình với bà. Trong quá trình vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã được gia đình hai bên khuyên can nhưng ông C không thay đổi, nên tình cảm vợ chồng ngày xa cách. Từ tháng 02/2020 do mâu thuẫn vợ chồng quá căng thẳng bà về nhà ngoại ở Thôn V, xã X sinh sống đến nay, thỉnh thoảng bà về nhà chồng để thăm con nhưng mỗi lần về ông lại chửi, đuổi không cho bà thăm nom con chung, từ khi vợ chồng sống ly thân hai bên không còn quan tâm gì đến nhau và không có quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông C đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con là Phùng Trọng H, sinh ngày 11/5/2010 hiện cháu mạnh khỏe bình thường đang ở cùng với ông C. Ly hôn bà xin được nuôi con chung, tuy nhiên tùy nguyện vọng của cháu, nếu cháu có nguyện vọng ở với bố thì bà cũng nhất trí.

Về tài sản chung; Nợ chung; Công sức đóng góp: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bị đơn ông Phùng Văn C: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông C đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng ông không đến Tòa án để giải quyết vụ án.

Tòa án cùng trưởng thôn đại diện cho địa phương trực tiếp đến nhà ông C tống đạt các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Giấy triệu tập đến phiên tòa; Quyết định hoãn phiên tòa cho ông C, ông C nhận các văn bản nhưng từ chối ký nhận biên bản giao văn bản tố tụng của Tòa án, khi tống đạt văn bản trên được đại diện trưởng thôn chứng kiến và ký xác nhận, do ông C không hợp tác nên Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bà T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là xin ly hôn và giải quyết việc nuôi con chung; Ông C vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Đối với đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án đề nghị giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Giang Thị T cho bà T ly hôn với ông Phùng Văn C. Về con chung giao ông C tiếp tục nuôi cháu Phùng Trọng H. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho bà T đến khi có yêu cầu mới, bà T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Bà T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Hôn nhân giữa bà Giang Thị T với ông Phùng Văn C là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc ngắn ngay từ những ngày đầu đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, do bà T bị đánh chửi, do mâu thuẫn giữa mẹ kế con chồng v.v, dẫn đến vợ chồng không có tiếng nói chung nên không thể chia sẻ được với nhau, hơn nữa do tuổi tác của vợ chồng có chênh lệch nên chuyện tình cảm không hòa hợp, bản thân ông C khó tính và gia trưởng thường xuyên chửi bới, xúc phạm đánh đuổi bà, dẫn đến vợ chồng ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay. Xét thấy hôn nhân giữa bà T và ông C không hạnh phúc không đạt được, tình cảm không còn, tình trạng trầm trọng. Căn cứ các Điều 51; 56; 81, 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà T cho bà được ly hôn ông C.

[2]. Về con chung: Bà T và ông C có 01 con là Phùng Trọng H, sinh ngày 11/5/2010, từ khi ly thân cháu Hiếu sống cùng với ông C và có nguyện vọng được ở với bố nên giao ông C tiếp tục nuôi cháu Hiếu, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho bà T đến khi có yêu cầu mới.

[3]. Về tài sản chung; nợ chung và công sức: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết, nếu sau này bà T, ông C có yêu cầu thì giải quyết bằng một vụ án khác.

[4]. Về án phí: Bà Giang Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Áp dụng khoản 1 Điều 6; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Giang Thị T, bà T được ly hôn ông Phùng Văn C.

2. Về con chung: Giao ông Phùng Văn C nuôi cháu Phùng Trọng H, sinh ngày 11/5/2010 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho bà Giang Thị T đến khi có yêu cầu mới. Bà Giang Thị T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung; Nợ chung và công sức: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bà Giang Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai số AA/2020/0056105 ngày 08/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Giang Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày xét xử; Ông Phùng Văn C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 35/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về