Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 60/2022/TLST - HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 16/8/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Lê Thị Tuyết T, sinh năm 1991 Hiện tạm trú tại: Cảng thủy nội địa Đ, xã R, huyện R, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: anh Phạm Văn T, sinh năm 1990 Địa chỉ: thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/6/2022 và bản tự khai ngày 09/8/2022 chị Lê Thị Tuyết T trình bày: chị và anh Phạm Văn T có quá trình tìm hiểu và đi đến kết hôn hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn B, huyện V, tỉnh Quảng Trị, vào ngày 19/6/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng cùng đi làm và chung sống tại thành phố Huế một thời gian, sau đó chị về ngoại sinh sống còn anh T đi làm công trình ở nhiều nơi khác nhau. Trong thời gian chung sống hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn về vấn đề kinh tế trong gia đình, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, anh T thường xuyên xúc phạm chị và gia đình chị. Sau thời gian dài cố gắng hàn gắn, khắc phục những mâu thuẫn nhưng không được, hiện nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên nguyện vọng của chị xin được ly hôn.

Về con chung: quá trình chung sống chị và anh Phạm Văn T có một con chung là Phạm Minh T, sinh ngày 29/12/2017, sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.

Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, thông qua Ủy ban nhân dân xã Đ, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như giấy triệu tập anh T đến Tòa án để ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T, nhưng anh T không đến Tòa án và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình. Theo kết quả xác minh tại gia đình, bà Hoàng Thị L (mẹ anh T) cho biết, anh Phạm Văn T là con trai của bà và có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Đ, huyện Tuyên Hóa. Bà là người trực tiếp nhận các văn bản tố tụng do Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa gửi cho con trai bà là Phạm Văn T. Tuy nhiên, do anh T thời điểm đó đang đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương, vì vậy bà đã điện thoại báo cho anh T biết, nhưng anh T không sắp xếp thời gian để đến Tòa án làm việc được.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa phát biểu về việc tuân theo pháp luật đối với Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đảm bảo thực hiện đúng và đủ thành phần theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay chị Lê Thị Tuyết T có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ, đối với anh Phạm Văn T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 207; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt chị Lê Thị Tuyết T và anh Phạm Văn T. Về quan hệ hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho chị Lê Thị Tuyết T ly hôn anh Phạm Văn T. Về con chung đề nghị áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83, 84, Điều 107, 110 và 116 Luật hôn nhân và gia đình giao con Phạm Minh T, sinh ngày 29/12/2017 cho chị Lê Thị Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, buộc anh Phạm Văn T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng; Về tài sản chung và công nợ không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí dân sự sơ thẩm chị T phải chịu theo quy định của pháp luật, án phí cấp dưỡng nuôi con anh T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Lê Thị Tuyết T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn đối với anh Phạm Văn T, đây là tranh chấp về ly hôn. Anh Phạm Văn T có hộ khẩu thường trú tại xã Đ, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nên Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa thụ lý, giải quyết vụ án là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa chị Lê Thị Tuyết T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ, anh Phạm Văn T vắng mặt nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 207; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị T và anh T là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử thấy:

Quan hệ hôn nhân: hôn nhân giữa chị T và anh T là tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được công nhận hôn nhân hợp pháp. Chị T xin ly hôn với anh T vì nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn, thời gian sống ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy từ sau khi vụ án được thụ lý và trong suốt quá trình giải quyết, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ đối với anh T đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh T vẫn không có mặt và cũng không có văn bản ghi nhận ý kiến của mình gửi cho Tòa án. Hiện tại anh T đi làm ăn xa nhưng cũng không cho gia đình, người thân của mình biết địa chỉ cụ thể, điều đó chứng tỏ anh T không có trách nhiệm với cuộc sống hôn nhân của vợ chồng, cố tình dấu địa chỉ. Vì vậy việc chị T khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn với anh T là có cơ sở, nên cần căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị Tuyết T ly hôn anh Phạm Văn T.

Về nuôi con chung của vợ chồng: hiện tại con chung của vợ chồng đang còn nhỏ và ở cùng với chị T kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Sau khi ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi con và yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng là phù hợp, mặt khác anh T hiện tại đã đi làm ăn xa, không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con. Tuy nhiên xét thấy chị T đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng là cao so với mức thu nhập chung tại địa phương và chị T cũng không chứng minh được mức thu nhập của anh T. Vì vậy, cần căn cứ các Điều 58, 81, 82, 83, 84, Điều 107, 110 và 116 Luật hôn nhân và gia đình để giao con chung Phạm Minh T, sinh ngày 29/12/2017 cho chị Lê Thị Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con hàng tháng từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng là phù hợp.

Về tài sản và nợ chung của vợ chồng: chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 147; khoản 1 Điều 207, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

1. Xử vắng mặt chị Lê Thị Tuyết T và anh Phạm Văn T.

2. Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Lê Thị Tuyết T ly hôn anh Phạm Văn T.

3. Về nuôi con chung của vợ chồng: giao con chung Phạm Minh T, sinh ngày 29/12/2017 cho chị Lê Thị Tuyết T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Buộc anh Phạm Văn T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng kể từ tháng 10 năm 2022 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Không ai được ngăn cản việc đi lại, chăm sóc con chung, khi cần thiết vì lợi ích của con thì một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

4. Về quan hệ tài sản và công nợ chung: Không xem xét.

5. Về án phí dân sự: buộc chị Lê Thị Tuyết T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0000108 ngày 11/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, chị T đã nộp đủ án phí.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: buộc anh Phạm Văn T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án, quyền được yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm, các bên đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về