Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 28/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 74/2022/TLST – HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Dương Văn H, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Bị đơn: Chị Châu Thị H1, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Dương Văn H trình bày: Anh kết hôn với chị Châu Thị H1 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn ngày 28/12/2011 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã Nguyễn Úy, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận với nhau đến khoảng đầu tháng 10/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị H1 chơi bời, tiêu xài cá nhân hoang phí dẫn đến nợ nần nên có rất nhiều người kéo đến nhà để đòi nợ, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Đến cuối tháng 10/2018 chị H1 tự ý về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh chị li thân nhau từ đó đến nay không còn quan tâm đến tình cảm, cuộc sống của nhau nữa. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Châu Thị H1.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng đã gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án cho chị Châu Thị H1, đồng thời nhiều lần triệu tập chị đến trụ sở Tòa án để giải quyết về việc anh H xin ly hôn chị, nhưng chị H1 đều cố tình vắng mặt. Tòa án đã đến tận nhà chị H1 tại thôn C, xã N, huyện K để xác minh và được bà Trần Thị T là mẹ đẻ chị H1 cung cấp: Anh H và chị H1 được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nguyễn Úy, huyện Kim Bảng. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình bố mẹ anh H ở cùng thôn đến khoảng tháng 6/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo bà được biết thì nguyên nhân anh chị mâu thuẫn là do vợ chồng không tin tưởng nhau, anh H hay nghi ngờ chị H1 có quan hệ tình cảm với người khác dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Đầu năm 2019 chị H1 trở về nhà bà sinh sống cho đến nay không về chung sống cùng anh H lần nào nữa. Bà T khẳng định chị H1 đi làm ăn tự do và vẫn đi về thăm gia đình thường xuyên. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và Giấy triệu tập của Tòa án đối với chị H1, ngay sau mỗi lần nhận bà đều thông báo trực tiếp cho chị H1 biết. Tuy nhiên, chị H1 có đến Tòa án làm việc hay không thì bà không nắm được.

Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng cũng đã tiến hành làm việc với chính quyền địa phương xã Nguyễn Úy, huyện Kim Bảng và được chính quyền địa phương cung cấp: Chị Châu Thị H1 là công dân có hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã N, huyện K và vẫn thường xuyên có mặt tại địa phương. Theo địa phương được biết, việc mâu thuẫn vợ chồng anh H chị H1 xảy ra là do anh chị không tin tưởng nhau, hay nghi ngờ lẫn nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi chửi nhau. Từ đầu năm 2019 chị H1 đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, từ đó đến nay địa phương không thấy chị H1 quay về chung sống với anh H nữa. Nay địa phương đề nghị Tòa án giải quyết cho anh H được ly hôn chị H1 theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh H xác định vợ chồng anh chị có hai con chung là Dương Tuấn N, sinh ngày 02/7/2012, hiện nay đang ở với anh và Dương Trà M, sinh ngày 12/10/2016, hiện nay đang ở với chị H1. Khi ly hôn anh xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N, giao cháu M cho chị H1 tiếp tục nuôi dưỡng, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về con riêng: Anh H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công sức đóng góp, công nợ, đất nông nghiệp:

Anh H xác định không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên toà, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự, vắng mặt không có lí do trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận đơn khởi kiện của anh Dương Văn H: Xử cho ly hôn giữa anh Dương Văn H và chị Châu Thị H1. Về con chung: Giao cháu Dương Tuấn N, sinh ngày 02/7/2012 cho anh H chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi tự lập được và giao cháu Dương Trà M, sinh ngày 12/10/2016 cho chị H1 chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi tự lập được. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về án phí: Anh H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh H đã nộp theo biên lai số 0000128 ngày 17/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là chị Châu Thị H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lí do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Dương Văn H và chị Châu Thị H1 là hợp pháp, anh chị đăng ký kết hôn với nhau ngày 28/12/2011 tại UBND xã Nguyễn Úy, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau ngày kết hôn anh chị chung sống hòa thuận đến khoảng tháng 6/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng sống không tin tưởng nhau, hay nghi ngờ lẫn nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết xin ly hôn chị H1; còn chị H1 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình không đến Tòa để giải quyết việc ly hôn. Theo xác minh tại địa phương và người thân của chị H1 thì mâu thuẫn vợ chồng anh H, chị H1 xảy ra là thực tế, từ đầu năm 2019 đến nay anh chị đã li thân nhau, không còn quan tâm đến cuộc sống, tình cảm của nhau nữa. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa anh Hưng và chị Hồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, xử cho anh H được ly hôn chị H1 là hoàn toàn phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh H và chị H1 có hai con chung tên là Dương Tuấn N, sinh ngày 02/7/2012 và Dương Trà M, sinh ngày 12/10/2016. Xét thấy từ khi anh chị ly thân nhau đến nay cháu N ở cùng với anh H và được anh nuôi dưỡng ăn học ổn định, nguyện vọng của cháu cũng xin được ở với bố, còn cháu M ở cùng với chị H1 và được chị chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của anh H, giao cho anh H được quyền nuôi dưỡng cháu N, giao cho chị H1 được quyền nuôi dưỡng cháu M, hai bên không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau là hoàn toàn phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con riêng: Anh H xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung; tài sản riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Anh H xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Xử cho ly hôn giữa anh Dương Văn H và chị Châu Thị H1.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Tuấn N, sinh ngày 02/7/2012 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Dương Trà M, sinh ngày 12/10/2016 cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H và chị H1 không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Anh H, chị H1 cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung.

3. Án phí: Anh Dương Văn H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh H đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000128 ngày 17 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. (Anh H đã thi hành xong phần án phí ly hôn sơ thẩm).

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho anh H biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; chị H1 vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về