TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 23 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2021 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị H. Sinh năm 1999. Địa chỉ: Bản CT, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Quàng Văn T. Sinh năm 1993. Địa chỉ: Bản CT, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/6/2021, bản tự khai ngày 23/7/2021 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Lò Thị H trình bày:
Chị và anh Quàng Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, ngày 02/02/2017 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn La. Quá trình chung sống, hòa thuận hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Quàng Văn T sử dụng ma túy, không chịu làm ăn, thường xuyên chửi bới, hành hung, xúc phạm chị, từ đó vợ chồng anh chị không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn đã được gia đình và chính quyền địa phương khuyên giải nhiều lần, nhưng không khắc phục được. Chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã MT, huyện ML từ năm 2020. Từ lâu hai người đã không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị ly hôn anh Quàng Văn T.
Về con chung: Có một con là Quàng Khánh N, sinh ngày 02/01/2017. Chị xin trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con, không yêu cầu anh Quàng Văn T cấp dưỡng nuôi con cùng.
Về tài sản chung, tài sản riêng: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 23/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Quàng Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận quan hệ hôn nhân giữa anh và chị Lò Thị H. Mâu thuẫn giữa anh chị là do từ năm 2020 anh sử dụng ma túy nên giữa hai vợ chồng xảy ra xích mích, không hòa thuận. Việc chị H xin ly hôn anh không đồng ý, do anh vẫn còn tình cảm với vợ.
Về con chung: Có một con là Quàng Khánh N, sinh ngày 02/01/2017. Anh nhất trí để chị Lò Thị H trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con, anh không cấp dưỡng nuôi con cùng.
Về tài sản chung, tài sản riêng: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Việc áp dụng pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng quy định.
Về nội dung:
Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Có căn cứ để xử cho chị Lò Thị H được ly hôn anh Quàng Văn T;
Về con chung: Giao cho chị Lò Thị H trực tiếp nuôi cháu Quàng Khánh N. Chị Lò Thị H không yêu cầu anh Quàng Văn T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ: Đều không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Chị Lò Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà và các quy định của pháp luật. Tòa án phân tích, đánh giá, nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Chị Lò Thị H khởi kiện ly hôn anh Quàng Văn T có nơi cư trú tại bản CT, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn La. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Lò Thị H và anh Quàng Văn T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được UBND thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 02/02/2017, như vậy hôn nhân giữa chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh T: Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Quàng Văn T sử dụng ma túy, không chịu làm ăn, có hành vi bạo lực gia đình. Từ lâu hai anh chị đã không quan tâm đến cuộc sống của nhau.
Tòa án nhân dân huyện ML đã tiến hành xác minh tại địa phương chị H và anh T sinh sống. Tại biên bản xác minh ngày 05/8/2021 xác nhận anh Tvà chị H có mâu thuẫn do anh T sử dụng ma túy, không chịu làm ăn, anh chị đã sống ly thân từ năm 2020.
Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng chị Lò Thị H và anh Quàng Văn T đã được gia đình và chính quyền địa phương khuyên giải, đã kéo dài, trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nay chị Lò Thị H yêu cầu được ly hôn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Cần chấp nhận xử cho chị Lò Thị H được ly hôn anh Quàng Văn T.
[3] Về con chung:
Chị Lò Thị H và anh Quàng Văn T có một con là Quàng Khánh N, sinh ngày 02/01/2017. Chị Lò Thị H và anh Quàng Văn T thống nhất chị Lò Thị H trực tiếp nuôi cháu Quàng Khánh N, anh Quàng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H là theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ:
Đều không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí:
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Toà án: Chị Lò Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Toà án:
1. Xử cho chị Lò Thị H được ly hôn anh Quàng Văn T.
2. Về con chung:
Giao cho chị Lò Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Quàng Khánh N, sinh ngày 02/01/2017 đến khi cháu đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động. Anh Quàng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Lò Thị H.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.
3. Về tài sản riêng, tài sản chung, nợ chung: Đều không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí:
Chị Lò Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002200 ngày 07/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh Sơn La.
Chị Lò Thị H và anh Quàng Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/8/2021.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 28/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 28/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về