Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 về việc "Ly hôn và nuôi con chung" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐST - HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2022:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thanh H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 50 đường Thượng Đ, tổ 25 phường H, quận Ng, TP Đ. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Trọng C, sinh năm 1981. HKTT: Số 50 đường Thượng Đức, tổ 25 phường H, quận Ng, TP Đ. Hiện ở tại: Số 35 Tây Sơn, tổ 26 phường Hòa H, quận Ng, TP Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện gửi đến Toà án và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn trình bày:

Tôi và anh Huỳnh Trọng C kết hôn với nhau vào năm 2006, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà mẹ tôi. Vợ chồng chung sống đến năm 2006 thì mâu thuẫn phát sinh. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình và quan điểm sống không phù hợp nhau, nên từ đó thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau, lạnh nhạt tình cảm với nhau. Mặt khác khi anh Chung có rượu vào thường hay vô cớ gây gỗ, gây ồn ào. Mâu thuẫn như vậy kéo dài đã nhiều lần tìm hướng giải quyêt nhưng không được. Hiện vợ chồng chấm dứt mọi quan hệ cho đến nay. Nay tôi không còn tình cảm yêu thương anh Chung nữa, tôi yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn với anh Chung.

Về con chung: Tôi và anh Chung có 02 con chung là Huỳnh Quốc H, sinh ngày 08/8/2005 và Huỳnh Thị Việt H, sinh ngày 29/7/2007. Ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, và không yêu cầu anh Chung cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có Về nợ chung: Không có

* Bị đơn ông Huỳnh Trọng C trong suốt quá trình tố tụng đều vắng mặt nên không có ý kiến thể hiện hồ sơ.

* Tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án gồm:

1. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng về cơ bản Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 BLTTDS. Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền thụ lý vụ án, thời hiệu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS.

- Việc thu thập chứng cứ: Về cơ bản việc thu thập chứng cứ đảm bảo theo đúng Điều 95 BLTTDS.

- Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho VKS và người tham gia tố tụng theo đúng quy định tại Điều 170, 171, 177, 178, 203, 205, 210 BLTTDS.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử Tòa án thực hiện đảm bảo theo quy định tại Điều 203 BLTTDS.

* Việc tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký tại phiên tòa:

Tại phiên Tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện nguyên tắc xét xử, thủ tục phiên tòa sơ thẩm theo đúng quy định tại chương II, chương XIV BLTTDS. Thư ký được phân công đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 51 BLTTDS.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án:

Từ khi thụ lý cho đến thời điểm này, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72 BLTTDS. Bị đơn không thực hiện đúng.

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Điều 35, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung của chị Phan Thị Thanh H đối với anh Huỳnh Trọng C.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phan Thị Thanh H được ly hôn anh Huỳnh Trọng C.

- Về con chung: Giao 02 cháu là Huỳnh Quốc H, sinh ngày 08/8/2005 và Huỳnh Thị Việt H, sinh ngày 29/7/2007 cho chị Phan Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Huỳnh Trọng C không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Do anh Chung vắng mặt nên không xác định được có hay không tài sản chung nên tách ra giải quyết khi các bên đương có yêu cầu.

Nguyên đơn phải chịu án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và qua kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết, tranh chấp ly hôn và nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Huỳnh Trọng C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh.

[2] Về nội dung vụ án chị Phan Thị Thanh H và anh Huỳnh Trọng C kết hôn với nhau vào năm 2006, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhạn và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà mẹ đẻ của chị Hải. Vợ chồng chung sống đến năm 2006 thì mâu thuẫn phát sinh. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình và quan điểm sống không phù hợp nhau, nên từ đó thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau, lạnh nhạt tình cảm với nhau. Mặt khác khi anh Chung có rượu vào thường hay vô cớ gây gỗ, gây ồn ào. Hiện vợ chồng chấm dứt mọi quan hệ cho đến nay. Nay chị Hải không còn tình cảm yêu thương anh Chung nữa, nguyên vọng yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Hải thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thực sự đạt được khi cả vợ chồng cùng có niềm tin và tình yêu, sự thông cảm và chia sẻ cùng nhau trong cuộc sống nhưng đến nay cả hai ông bà đã không còn giữ được điều này. Trong thời gian mâu thuẫn đến nay vợ chồng cũng không tìm kiếm được tiếng nói chung, cũng như không có giải pháp để cùng nhau dung hòa mâu thuẫn cải thiện lại quan hệ vợ chồng đã chấm dứt. Khi chị Hải nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn Tòa án, đã triệu tập nhiều lần để hòa giải nhưng anh Chung đều vắng mặt thể hiện ý thức anh không chấp hành pháp luật cũng như bỏ mặc việc níu kéo đối với chính cuộc hôn nhân của mình. Do đó thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã thật sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, thấy có níu kéo cũng không đem lại kết quả gì nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hải đối với anh Chung là phù hợp với điều 51 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị Hải và anh Chung có 02 con chung là Huỳnh Quốc H, sinh ngày 08/8/2005 và Huỳnh Thị Việt H, sinh ngày 29/7/2007. Ly hôn chị Hải có nguyện vọng được được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, và không yêu cầu ông Chung cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu xin được nuôi con của chị Hải thì thấy hiện nay các cháu đang có cuộc sống sinh hoạt ổn định, thấy không nhất thiết phải thay đổi xáo trộn cuộc sống của các cháu nên yêu cầu xin được nuôi con của chị Hải là phù hợp nên HĐXX chấp nhận, chị Hải không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung chị Hải xác định không có, tuy nhiên tại phiên tòa do anh Chung vắng mặt nên không có cơ sở xác định vợ chồng có hay không tài sản chung nên HĐXX không đề cập xem xét, tách ra sau này các đương sự nếu có yêu cầu thì giải quyết bằng vụ án khác.

[6] Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000đ chị Phan Thị Thanh H phải chịu khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0001210 ngày 23 tháng 3 năm 2022.

Xét đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 51, 56, 81 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con chung” của chị Phan Thị Thanh H đối với anh Huỳnh Trọng C.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phan Thị Thanh H được ly hôn anh Huỳnh Trọng C.

2. Về quan hệ con chung: Giao 02 cháu là Huỳnh Quốc H, sinh ngày 08/8/2005 và Huỳnh Thị Việt H, sinh ngày 29/7/2007 cho chị Phan Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Huỳnh Trọng C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Các bên vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích chung của con các bên có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Tách ra khi có yêu cầu thì giải quyết vụ án khác .

4. Về nợ chung: Tách ra khi có yêu cầu thì giải quyết vụ án khác .

5. Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000đ chị Phan Thị Thanh H phải chịu khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0001210 ngày 23 tháng 3 năm 2022.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng bị đơn được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về