Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 19/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 19/2024/HNGĐ-ST NGÀY 20/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 20 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 165/2023/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp: "Ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phạm Thị T. N, sinh năm 20xx. Địa chỉ: Ấp C, xã K, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Nguyễn N. Q, sinh năm 20xx. Địa chỉ: Ấp G, xã P, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang.

(Chị N xin vắng mặt, anh Q vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn ngày 24/10/2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị T. N trình bày:

Chị và anh Q tự quen biết tìm hiểu nhau một tháng thì tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang vào năm 20xx. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống bên gia đình anh Q, hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, thường hay cải vã, anh Q ghen tuông vô cớ, đánh chị. Chị đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 9/20xx, anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay không còn tình cảm, chị yêu cầu ly hôn. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Nhật T. V, sinh ngày 20/11/20xx, cháu hiện đang sống chung với chị, anh Q không có đến thăm nom cháu từ lúc chị bỏ đi cho đến nay. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Vi, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

* Quá trình tố tụng bị đơn anh Nguyễn N. Q đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng anh Q không đến Tòa án để tham dự phiên hòa giải, không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn.

* Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát:

- Về tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên không kiến nghị gì về tố tụng.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định:

+ Về quan hệ hôn nhân: cho chị Phạm Thị T. N được ly hôn với anh Nguyễn N. Q.

+ Về con chung: giao con chung tên Phạm Nhật Tường Vi, sinh ngày 20/11/20xx cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị N chưa yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con + Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đương sự là tranh chấp: "Ly hôn, nuôi con chung" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Việc nộp đơn khởi kiện, thụ lý đơn và thẩm quyền giải quyết của Tòa án đúng quy định; Việc thu thập tài liệu chứng cứ; Thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyễn đơn chị N có đơn xin vắng mặt, bị đơn anh Q vắng mặt không lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định. Trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa anh Q vắng mặt là tự từ bỏ lời trình bày của đương sự tại tòa. Việc vắng mặt của anh Q không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[3] Về hôn nhân: Chị N và anh Q kết hôn năm 2022 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Xét yêu cầu ly hôn của chị N, Hội đồng xét xử nhận thấy, theo lời trình bày của chị: Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc được vài tháng thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Q ghen tuông, vợ chồng thường hay cải vã, bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 9/2023, mâu thuẫn trầm trọng hơn nên chị về bên nhà chị sinh sống và ly thân cho đến nay. Về phía anh Q, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng anh vẫn không đến Tòa án và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến. Cho thấy, anh không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm hàn gắn tình cảm với chị N. Do hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị N, cho chị được ly hôn với anh Q là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về nuôi con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Phạm Nhật Tường Vi, sinh ngày 20/11/2021, hiện cháu đang sống với chị N. Xét yêu cầu được tiếp tục nuôi con của chị N, Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu Vi sống cùng chị đã ổn định về mọi mặt nên cần giao cho mẹ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu cũng như phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, yêu cầu của chị N là có căn cứ để chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: chị N chưa yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét đến.

[6] Về án phí: Chị N yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khời kiện của chị Phạm Thị T. N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phạm Thị T. N được ly hôn với anh Nguyễn N. Q.

2. Về nuôi con chung:

- Giao con chung Phạm Nhật T. V, sinh ngày 20/11/20xx cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: chị N chưa yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Q được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung;

chị N và các thành viên gia đình không được ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị T. N phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0008728 ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hànhán dân sự huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Chị N đã nộp xong án phí.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 19/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về