Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 177/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 177/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 368/2022/TLST - HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 286/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phan Thị D T, sinh năm 1995 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Bình Trung, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG Chỗ ở hiện nay: Số 202, ấp 4, xã Bình Tấn, huyện TB, tỉnh ĐT

2. Bị đơn: Ông Võ V P, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Bình Trung, xã BPX, huyện CM, tỉnh AG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và tờ tự khai nguyên đơn bà Phan Thị D T trình bày, bà và ông Võ V P quen biết do mai mối và kết hôn vào năm 2018, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống với nhau đến đầu năm 2022 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm hay cãi nhau, chồng ghen tuông vô cớ và không lo làm ăn chăm lo cho gia đình. Vợ chồng không còn sống chung từ năm 2022 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, Bà T yêu cầu được ly hôn với Ông P.

Về con chung: Bà T xác định vợ chồng có 01 con chung tên Võ Minh Luân, sinh ngày 19/02/2020, hiện đang sống với bà, sau khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Luân, không yêu cầu Ông P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, vợ chồng tự thỏa thuận.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Võ V P đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án của bà Phan Thị D T và triệu tập hợp lệ để giải quyết, nhưng Ông P vắng mặt không lý do, nên không ghi nhận ý kiến và hòa giải được.

Tại phiên tòa, bà Phan Thị D T vẫn giữ nguyên yêu cầu.

Ông Võ V P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, nhưng ông vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về việc giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị D T xin ly hôn ông Võ V P.

Về quan hệ con chung: Bà T được tiếp tục nuôi con chung tên Võ Minh Luân, sinh ngày 19/02/2020, hiện đang sống với Bà T. Ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về hình thức: Bà Phan Thị D T khởi kiện xin ly hôn ông Võ V P có nơi cư trú ấp Bình Trung, xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Ông Võ V P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Võ V P là có căn cứ [2]- Về nội dung: Bà Phan Thị D T và ông Võ V P sống chung vào năm 2018, có đăng ký kết hôn theo qui định. Vợ chồng sống đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm hay cãi nhau, Ông P ghen tuông vô cớ và không lo làm ăn chăm lo cho gia đình. Vợ chồng không còn sống chung từ cuối năm 2020 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, Bà T xin ly hôn Ông P. Hội đồng xét xử xét thấy, Bà T và Ông P kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tạo điều kiện và động viên vợ chồng hàn gắn ở lại, nhưng Bà T vẫn kiên quyết yêu cầu xin ly hôn Ông P vì tình cảm không còn. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng, nếu sống chung lại cũng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu của Bà T phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình và có cơ sở chấp nhận.

[2.1]- Về quan hệ con chung: Bà T xác định có 01 con chung tên Võ Minh Luân, sinh ngày 19/02/2020, hiện đang sống với Bà T. Sau khi ly hôn, Bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Luân, không yêu cầu Ông P cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, Bà T hiện đang có công việc và thu nhập ổn định và có đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Luân. Bên cạnh đó, cháu Luân chưa đủ 36 tháng tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ, do đó yêu cầu của Bà T có cơ sở chấp nhận và phù hợp với Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]- Về quan hệ tài sản chung: Bà T không yêu cầu giải quyết để vợ chồng tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3]- Về nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[3]- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điều 28, 35, 39, 147, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị D T xin ly hôn ông Võ V P.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 111 ngày 30/11/2018 của Ủy ban nhân dân xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Bà T được tiếp tục nuôi con chung tên Võ Minh Luân, sinh ngày 19/02/2020, hiện đang sống với Bà T. Ông P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở Ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ghi nhận Bà T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì Bà T, Ông P vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Bà Phan Thị D T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0010470 ngày 07/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

361
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 177/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:177/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về