Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 170/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 170/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 174/2022/HNGĐ- TLST ngày 08/6/2022, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/7/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 139/2022/QĐ-ST ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị L, sinh ngày 23/01/1997.

ĐKHKTT: KDC Trại S, phường Văn A, thành phố L, tỉnh D.

Chỗ ở hiện nay: Xóm 9, thôn Tống Th, xã Quang Th, thị xã M, tỉnh D.

2 Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/11/1991.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC Trại S, phường Văn A, thành phố L, tỉnh D.

Hiện đang lao động tại: Nhật Bản

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Ngô Thị L trình bầy: Chị và anh H tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh D ngày 24/5/2018. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được một năm. Để phát triển kinh tế gia đình, đầu năm 2019 anh H đi lao động tại Nhật Bản, từ khi đi đến nay anh H chưa về Việt Nam lần nào. Thời gian đầu vợ chồng thường xuyên liên lạc nhưng sau đó thưa dần, dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt, hai bên không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Đầu năm 2021 anh H có gọi điện về bảo chị ở nhà làm thủ tục ly hôn để giải phóng cho hai bên, nhưng do con còn nhỏ nên chị chưa làm đơn ly hôn. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thảo C, sinh ngày 15/12/2018. Hiện nay cháu đang ở với chị, ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con, chị tự nguyện không yêu cầu anh H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn H hiện nay đang lao động tại Nhật Bản, nhưng do chị L không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh H nên Tòa án đã xác minh địa chỉ của anh H tại gia đình. Bà Đỗ Thị M là mẹ đẻ anh H cung cấp anh H đi Nhật Bản từ năm 2019, từ khi đi anh H chưa về Việt Nam lần nào, bà không biết địa chỉ của anh H nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh H thường xuyên gọi điện về cho bà. Bà M cho biết vợ chồng anh H, chị L chung sống hạnh phúc trong thời gian đầu, đến năm 2020 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Hiện tại chị L đã đưa con về nhà mẹ đẻ ở Kinh Môn sinh sống. Bà M đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh H biết. Sau khi được thông báo, thông qua gia đình anh H có quan điểm, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị L có đơn xin ly hôn anh cũng cũng nhất trí. Về con chung anh H đồng ý để chị L nuôi con, nhưng với điều kiện chị L phải thường xuyên cho gia đình anh được đón và thăm gặp cháu Chi. Về tài sản chung, nợ chung anh H xác định không có, anh đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị L, anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị L được ly hôn anh H. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thảo C, sinh ngày 15/12/2018 cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Các bên không đề nghị, nên không xem xét giải quyết. Về án phí: chị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh D, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Ngô Thị L đang sinh sống tại khu dân cư Trại S, phường A, thành phố L, tỉnh D. Anh Nguyễn Văn H có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại: Khu dân cư Trại S, phường A, thành phố L, tỉnh D, hiện đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh D thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Quá trình giải quyết vụ án, chị L không cung cấp được địa chỉ của anh H ở Nhật Bản.Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC–PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân tối cao, Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh H cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Qua xác minh tại gia đình anh H thì được biết, anh H thường xuyên liên lạc với mẹ đẻ là bà Đỗ Thị M. Bà M đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh H biết. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Chị L có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Anh H đã được gia đình thông báo và cũng có quan điểm giải quyết vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị L và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh D ngày 24/5/2018, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm. Đầu năm 2019 anh H đi Nhật Bản lao động, do vợ chồng sống xa cách dẫn đến bất đồng quan điểm và phát sinh mâu thuẫn. Hiên tại chị L đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng không còn liên lạc. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn anh H. Thông qua gia đình anh H cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị L, anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L.

- Về con chung: Chị Ngô Thị L và anh Nguyễn Văn H có một con chung là Nguyễn Thảo C, sinh ngày 15/12/2018, hiện đang ở với chị L. Ly hôn chị L có nguyện vọng được nuôi con, thông qua gia đình anh H cũng đồng ý để chị L nuôi con. Xét thấy, thực tế cháu C còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, còn anh H đang ở nước ngoài nên không thể trực tiếp nuôi con. Do vậy cần tiếp tục giao cháu C cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3].Về án phí: Chị Ngô Thị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn H 2.Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thảo C, sinh ngày 15/12/2018 cho chị Ngô Thị L chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Văn H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001052 ngày 08 tháng 6 năm 2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh D. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Ngô Thị L, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Nguyễn Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 170/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:170/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về