TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 06/2023/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 10 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 211/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2022 về "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2023/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 01 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 211/2023/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Chế Minh H, sinh năm 1990; Địa chỉ: K382/7/11 đường H1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Hữu Khánh V, sinh năm 1992; Địa chỉ: K528/11 đường O, phường H2, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn – ông Chế Minh H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Nguyễn Hữu Khánh V xây dựng gia đình với nhau vào tháng 9 năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường V1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ vợ tại địa chỉ K528/11 đường O, quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng được một năm thì về nhà cha mẹ tôi sinh sống tại K382/7/11 đường H1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng sinh sống. Trong thời gian chung sống tại nhà tôi vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẩn nên từ tháng 02/2020 bà V đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng chúng tôi ly thân từ đó đến nay. Tôi đã nhiều lần cố gắng hàn gắn vợ chồng nhưng không được, nay tôi xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà V.
Về quan hệ con chung: Tôi xác định tôi và bà Nguyễn Hữu Khánh V có 01 con chung tên Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018. Hiện nay, con chung đang do bà V trực tiếp nuôi dưỡng nên tôi có nguyện vọng giao con chung cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, tôi tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu TP Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật. Đối với bị đơn, kể từ thời điểm thụ lý đến thời điểm trước khi mở phiên tòa đã không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho ông Chế Minh H được ly hôn với bà Nguyễn Hữu Khánh V; giao con chung tên Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của ông H mỗi tháng 6.000.000đ cho đến khi con chung đủ 18 tuổi;
về tài sản chung, về nợ chung: không có nên không đề cập đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:
Yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” giữa nguyên đơn ông Chế Minh H đối với bị đơn bà Nguyễn Hữu Khánh V thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố dụng dân sự.
Bị đơn là bà Nguyễn Hữu Khánh V đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.
[2] Về nội dung vụ án: Theo nguyên đơn trình bày thì ông Chế Minh H và bà Nguyễn Hữu Khánh V xây dựng gia đình với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường V1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ bà V tại địa chỉ K528/11 đường O, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng được một năm thì về nhà cha mẹ ông H tại địa chỉ K382/7/11 đường H1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng sinh sống. Trong cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, bản thân ông bà không tôn trọng nhau nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng đến tháng 02/2020 khi mâu thuẫn đỉnh điểm thì bà V bỏ về nhà cha mẹ ruột để sống. Bản thân ông H nhiều lần hàn gắn vợ chồng nhưng không được, ông bà sống ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay. Nay ông H xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà V.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì thấy: Cuộc hôn nhân của ông Chế Minh H và bà Nguyễn Hữu Khánh V là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đến nay, ông H cho rằng mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không để kéo dài và không còn tình cảm với bà V nữa nên có quyền làm đơn khởi kiện xin ly hôn theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn, từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử bà Nguyễn Hữu Khánh V đều không có mặt theo triệu tập; thông báo của Toà án, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà. Qua đó, thể hiện bà V đã không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này, không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Kết quả xác minh tại địa phương cho thấy, vợ chồng ông H và bà V không còn chung sống với nhau tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ông bà đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; có kéo dài cuộc hôn nhân này cũng không đem lại kết quả nên cần áp dụng Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Chế Minh H là hợp tình hợp lý.
[4] Về quan hệ con chung: Ông Chế Minh H trình bày vợ chồng có 01 con chung Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018. Ly hôn, ông H có nguyện vọng giao con chung cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, ông H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét thấy hiện nay con chung đang còn nhỏ và đang do bà V trực tiếp nuôi dưỡng nên nguyện vọng giao con chung Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.
[5] Về quan hệ tài sản chung: Ông Chế Minh H trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về nợ chung: Ông Chế Minh H trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[7] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nguyên đơn phải chịu theo luật định.
[8] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 63, 147, 227, 228, 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn " của ông Chế Minh H đối với bà Nguyễn Hữu Khánh V.
1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Chế Minh H được ly hôn với bà Nguyễn Hữu Khánh V.
(Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 116, ngày 04 tháng 9 năm 2018 của UBND phường V1, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) 2. Về quan hệ con chung: Ông Chế Minh H và bà Nguyễn Hữu Khánh V có 01 con chung là Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018.
Giao con chung Chế Gia L, sinh ngày 25/11/2018 cho bà Nguyễn Hữu Khánh V trực tiếp nuôi dưỡng.
Ông Chế Minh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 6.000.000đ (Sáu triệu đồng); Thời gian cấp dưỡng được thực hiện vào ngày 10 hàng tháng kể từ tháng 4 năm 2023 cho đến khi các con đủ 18 tuổi.
Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng nuôi con.
Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền được thực hiện theo Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Chế Minh H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0006905 ngày 21/11/2022.
Án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ: Ông Chế Minh H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 06/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 06/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về