Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 05/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 791/2020/TLST-HNGĐ ngày 08/12/2020 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 322/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/12/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Chị Võ Thị L, sinh năm 1991. Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn : Anh Lưu Văn V, sinh năm 1980.

Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Chị L, anh V có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 27/11/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Võ Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Do mai mối chị L và anh V xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T theo giấy đăng ký kết hôn số 84 ngày 07/9/2016. Sau khi cưới vợ chồng chung sống bên gia đình cha mẹ anh V sống hạnh phúc đầu năm 2018 phát sinh mâu thuẫn do anh V thường hay nhậu nhẹt, cờ bạc không lo làm ăn lo gia đình. Vợ chồng sống ly thân cắt đứt quan 1 hệ từ tháng 9/2020. Do cuộc sống vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn đoàn tụ lại được nên chị L yêu cầu ly hôn với anh V.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lưu Chí C, sinh ngày 13/10/2016 và Lưu Thị Như Y, sinh ngày 05/6/2018. Hiện do chị L chăm sóc nuôi dưỡng, khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi cháu Y, giao cháu C cho anh V nuôi, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản và nợ chung: Tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai 23/12/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại tòa bị đơn anh Lưu Văn V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn, có đăng ký kết hôn như chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 xảy ra mâu thuẫn do kinh tế gia đình gặp khó khăn nên vợ chồng hay cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9/2020 cho đến nay. Nay anh V không đồng ý ly hôn với chị L.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lưu Chí C, sinh ngày 13/10/2016 và Lưu Thị Như Y, sinh ngày 05/6/2018, nếu ly hôn anh V yêu cầu nuôi cháu C, giao cháu Y cho chị L nuôi, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản và nợ chung: Tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Do mai mối chị L và anh V xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T theo giấy đăng ký kết hôn số 84 ngày 07/9/2016 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng chung sống bên gia đình cha mẹ anh V sống hạnh phúc đầu năm 2018 phát sinh mâu thuẫn do anh V thường hay nhậu nhẹt, cờ bạc không lo làm ăn lo gia đình. Vợ chồng sống ly thân cắt đứt quan hệ từ tháng 9/2020. Do cuộc sống vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn đoàn tụ lại được nên chị L yêu cầu ly hôn với anh V. Bị đơn anh V không đồng ý ly hôn do anh vẫn còn tình cảm với chị L mong vợ chồng hàn gắn đoàn tụ.

Xét, sau khi chị L và anh Viện xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2015, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian cho đến năm 2018 thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do anh V thường hay nhậu nhẹt, cờ bạc không lo làm ăn lo gia đình. Còn anh V cũng thừa nhận trong thời gian chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn do kinh tế gia đình khó khăn nhưng anh không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy anh V cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị L nên không đồng ý ly hôn, nhưng trong thời gian chung sống anh V không chăm lo làm ăn để lo cho gia đình mà thường hay nhậu nhẹt, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay anh V cũng không điện thoại liên lạc năn nỉ rước chị L về và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh V không đưa ra được biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Mặc dù, Tòa án đã động viên, hòa giải nhưng chị L vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh V. Từ những tình tiết này, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Có 02 con chung tên Lưu Chí C, sinh ngày 13/10/2016 và Lưu Thị Như Y, sinh ngày 05/6/2018. Tại phiên tòa, chị L và anh V thỏa thuận giao cháu Lưu Chí C cho anh V chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Lưu Thị Như Y cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng. Xét, việc thỏa thuận trên là hoàn toàn tự nguyện không ai ép buộc không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Chị L, anh V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản và nợ chung: Tự thoả thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết

[4] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị L, căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án nên chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Võ Thị L được ly hôn với anh Lưu Văn V.

2. Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa chị L và anh V giao cháu Lưu Chí C, sinh ngày 13/10/2016 cho anh V chăm sóc nuôi dưỡng; Giao cháu Lưu Thị Như Y, sinh ngày 05/6/2018 cho chị L chăm sóc nuôi dưỡng. Chị L, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau do anh chị không có yêu cầu. Chị L, anh V có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Võ Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004506 ngày 08/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang, nên xem như chị L đã nộp xong tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Võ T, anh Lưu Văn V có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 05/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về