Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung số 25/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST GÀY 28/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG, CẤP DƯỠNG NUÔI CON VÀ TÀI SẢN CHUNG

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 50/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị PTCL; ĐKNKTT: Số nhà 274, đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; trú tại: Số 209, đường D, phường E, quận F, thành phố Hai Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh PHN; ĐKNKTT: Số nhà 274, đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; trú tại: Số nhà 290/4, đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngay 05-7-2021, bản tự khai đề ngày 16-7-2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn (chị PTCL) trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Tôi (PTCL) và anh PHN kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường B, quận C (Giấy chứng nhận kết hôn số 28/2017, ngày 23-6-2017).

Quá trình vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do không hợp nhau về tính cách và bất đồng về quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên đến cuối năm 2019 thì tôi (PTCL) đã mang con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ đó cho đến nay. Vợ chồng sống ly thân và không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn nên tôi (PTCL) đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh PHN.

Về con chung: Tôi (PTCL) và anh PHN có một con chung là G, sinh ngày 30-9-2017. Ly hôn, tôi (PTCL) yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu G, khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì tôi và anh PHN sẽ tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.

Về tài sản: Tôi (PTCL) và anh PHN sẽ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.

Về phía bị đơn (anh PHN): Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án để bị đơn thực hiện việc trình bày bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án cũng đã hai lần tiến hành triệu tập (ngày 09-8-2021 và 16- 8-2021) nhưng bị đơn không có mặt để giải quyết vụ án và cũng không gửi bản tự khai trình bày ý kiến của mình theo yêu cầu của Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án, Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 08-9-2021 và tống đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên họp. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng phát biểu ý kiến:

Về thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ của Tòa án đều tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết và tại phiên tòa của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Sự tuân thủ chấp hành pháp luật của nguyên đơn đảm bảo đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự; bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Về quan hệ vợ chồng: Chị PTCL được ly hôn với anh PHN.

- Về con chung: Giao cho chị PTCL trực tiếp nuôi con chung là G, sinh ngày 30-9-2017. Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do hai bên không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung: Do hai bên đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt và triệu tập hợp lệ đối với bị đơn (anh PHN) nhưng bị đơn vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật có tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung sau khi ly hôn đối với bi đơn có địa chỉ cư trú tại phường B, quận C nên yêu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng theo quy định tại Điều 28, Khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị PTCL và anh PHN kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký việc kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường B, quận C, Hải Phòng theo đúng quy định của pháp luật (Giấy chứng nhận kết hôn số 28/2017, ngày 23-6-2017).

[4] Nguyên đơn (chị PTCL) trình bày: Quá trình vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau về tính cách và bất đồng trong quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có khả năng khắc phục nên hai bên đã tự sống ly thân nhau từ cuối năm 2019 cho đến nay. Vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị PTCL khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh PHN.

[5] Về phía bị đơn (anh PHN): Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án để bị đơn thực hiện việc trình bày bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng bị đơn không gửi bản tự khai đến Tòa án. Tòa án đã nhiều lần triệu tập và Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên họp. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, trong quan hệ vợ chồng giữa chị PTCL và anh PHN có phát sinh mâu thuẫn kéo dài từ năm 2019 cho đến nay nhưng cả hai bên đều không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Việc bị đơn (anh PHN) không có mặt theo triệu tập của Tòa án và cũng không có văn bản nêu ý kiến, quan điểm của mình trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứng tỏ bị đơn có ý thức bỏ mặc, không quan tâm và không muốn hàn gắn mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Do vậy cần xác định mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa chị PTCL và anh PHN đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn tình cảm đối với nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ thực tế và phù hợp với quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên đã có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử: Nguyên đơn (chị PTCL) được ly hôn với bị đơn (anh PHN).

[7] Về con chung: Nguyên đơn trình bày vợ chồng có một con chung là G, sinh ngày 30-9-2017. Ly hôn, nguyên đơn (chị PTCL) yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, khoản tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do hai bên tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.

[8] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị đơn không có văn bản nêu ý kiến cụ thể về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao cho nguyên đơn (chị PTCL) được trưc tiêp nuôi dươngcháu G là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy đinh tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[9] Về câp dương nuôi con sau khi ly hôn: Do nguyên đơn không có yêu cầu và bị đơn không có ý kiến về việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên Tòa án không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ việc khác theo thủ tục tố tụng dân sự.

[10] Về tài sản chung: Các đương sự đều không có yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sựđiểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

- Về quan hệ vợ chồng: Chị PTCL được ly hôn với anh PHN.

- Về con chung: Giao cho chị PTCL trưc tiêp nuôi dương con chung là G, sinh ngày 30-9-2017. Thời hạn nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo qui định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do không có yêu cầu nên Toà án không xem xét giải quyết.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị PTCL phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp khi khởi kiện tại biên lai ký hiệu AA/2016, số 0010272 ngày 16-7-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chị PTCL đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung số 25/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về