TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG, CẤP DƯỠNG NUÔI CON VÀ TÀI SẢN CHUNG
Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị NTHT; ĐKNKTT và trú tại: Tổ 8, thị trấn A, huyện A, thành phố Hai Phong; có mặt.
- Bị đơn: Anh NTT; ĐKNKTT và trú tại: Số B, phường C, quân D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngay 05-4-2021, bản tự khai đề ngày 14-5-2021 và tại phiên tòa, nguyên đơn (chị NTHT) trình bày:
Về quan hệ vợ chồng: Tôi (NTHT) và anh NTT kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường C, quận D (Giấy chứng nhận kết hôn số 87, quyển số 01, ngày 21-11-2013).
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không hợp nhau về tính cách và bất đồng về quan điểm sống. Hai bên gia đình đã hòa giải, động viên vợ chồng rất nhiều nhưng không đem lại kết quả gì. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài từ năm 2017 cho đến tháng 8 năm 2020 thì tôi (NTHT) đã ra ngoài thuê nhà để sống riêng, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó cho đến nay, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn nên tôi (NTHT) đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh NTT.
Về con chung: Tôi (NTHT) và anh NTT có một con chung là E, sinh ngày 10-12-2012. Ly hôn, tôi (NTHT) yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu E, khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì tôi và anh NTT sẽ tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.
Về tài sản: Tôi (NTHT) và anh NTT sẽ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.
Về phía bị đơn (anh NTT): Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án để bị đơn thực hiện việc trình bày bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án cũng đã hai lần tiến hành triệu tập (ngày 07-6-2021 và 15- 6-2021) nhưng bị đơn không có mặt và cũng không gửi bản tự khai trình bày ý kiến của mình theo yêu cầu của Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án, Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 20-7-2021 và tống đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên họp. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng phát biểu ý kiến:
Về thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ của Tòa án đều tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết và tại phiên tòa của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Sự tuân thủ chấp hành pháp luật của nguyên đơn đảm bảo đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự; bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Về quan hệ vợ chồng: Chị NTHT được ly hôn với anh NTT.
- Về con chung: Giao cho chị NTHT trực tiếp nuôi con chung là E, sinh ngày 10-12-2012. Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do hai bên không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
- Về chia tài sản chung: Do hai bên đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
- Về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt và triệu tập hợp lệ đối với bị đơn (anh NTT) nhưng bị đơn vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật có tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung sau khi ly hôn đối với bi đơn có địa chỉ cư tru tai phường C, quận D nên yêu câu khơi kiên của nguyên đơn thuôc thâm quyên giai quyêt cua Toa an nhân dân quân Hông Bàng theo quy đinh tai Điêu 28, khoản 1 Điêu 35 và khoản 1 Điêu 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị NTHT và anh NTT kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký việc kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường C, quận D, Hải Phòng theo đúng quy định của pháp luật (Giấy chứng nhận kết hôn số 87, quyển số 01, ngày 21-11-2013).
[4] Nguyên đơn (chị NTHT) trình bày: Quá trình vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau về tính cách và bất đồng trong quan điểm sống quá sâu sắc, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xảy ra xô sát, cãi vã nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không có khả năng khắc phục nên hai bên đã tự sống ly thân nhau từ tháng 8 năm 2020 cho đến nay. Vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị NTHT khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh NTT.
[5] Về phía bị đơn (anh NTT): Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án để bị đơn thực hiện việc trình bày bản tự khai đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng bị đơn không gửi bản tự khai đến Tòa án. Tòa án đã nhiều lần triệu tập và Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên họp. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
[6] Hội đồng xét xử xét thấy, trong quan hệ vợ chồng giữa chị NTHT và anh NTT có phát sinh mâu thuẫn từ khoảng cuối năm 2017 và kéo dài cho đến nay nhưng cả hai bên đều không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Việc bị đơn (anh NTT) không có văn bản nêu ý kiến, quan điểm của mình trước yêu cầu khởi kiện của nguyên cũng chứng tỏ bị đơn có ý thức bỏ mặc và không muốn hàn gắn mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Do vậy cần xác định mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa chị NTHT và anh NTT đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn tình cảm đối với nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên đã có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử: Nguyên đơn (chị NTHT) được ly hôn với bị đơn (anh NTT).
[7] Về con chung: Nguyên đơn trình bày vợ chồng có một con chung là E, sinh ngày 10-12-2012. Ly hôn, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, khoản tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do hai bên tự thỏa thuận và tự giao cho nhau, không yêu cầu Tòa án phải giải quyết.
[8] Hội đồng xét xử xét thấy: Bị đơn không có ý kiến cụ thể về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn. Tại đơn trình bày đề ngày 22-6-2021 cháu E có nguyện vọng muốn được sinh sống cùng mẹ. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao cho nguyên đơn (chị NTHT) được trưc tiêp nuôi dương cháu E là phù hợp với nguyện vọng của con, phù hợp với thực tế và phù hợp với quy đinh tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[9] Về câp dương nuôi con sau khi ly hôn: Do nguyên đơn không có yêu cầu và bị đơn không có ý kiến về việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ việc khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
[10] Về tài sản chung: Các đương sự đều không có yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[11] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:
- Về quan hệ vợ chồng: Chị NTHT được ly hôn với anh NTT.
- Về con chung: Giao cho chị NTHT trưc tiêp nuôi dương con chung là E, sinh ngày 10-12-2012. Thời hạn nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo qui định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn do không có yêu cầu nên Toà án không xem xét giải quyết.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Chị NTHT phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp khi khởi kiện tại biên lai ký hiệu AA/2016, số 0010195 ngày 14-5-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; chị NTHT đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung số 22/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 22/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về