Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 16/2022/ HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN CHUNG

Ngày 28 tháng 03 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2021 TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXX-ST ngày 07 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06 2022 QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 03 năm 2022; Thông báo về việc dời ngày xét xử sơ thẩm vụ án số 08 2022 TB- TA ngày 08 tháng 03 năm 2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Yến L, sinh năm 1999 Địa chỉ: Ấp Vĩnh L, xã Vĩnh T, huyện H, tỉnh Bạc Liêu

2. Bị đơn: Anh Đặng Nhựt H, sinh năm 2000 Địa chỉ: Ấp Vĩnh L, xã Vĩnh T, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 05 tháng 10 năm 2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Yến L trình bày: Chị và anh Đặng Nhựt H xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2019, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, đến năm 2020 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh T, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

Quá trình chung sống chị và anh H có 01 (một) con chung tên là Đặng Nhựt P, sinh ngày 08 7 2020. Hiện con chung giữa chị và anh H là cháu P đang sống cùng với chị L.

Về tài sản chung gồm có: số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Ngoài ra, không còn tài sản chung nào khác. Tại đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 10 năm 2021, chị L có yêu cầu chia đôi tài sản chung với anh H. Tuy nhiên, tại đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày 14 tháng 10 năm 2021, chị L xác định: Hiện nay, phần tài sản chung trên chị L và anh H đã thống nhất thỏa thuận xong, nên chị xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề tài sản chung giữa chị và anh H.

Về nợ chung: Không có.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị và anh H là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 09 năm 2021 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, chị L và anh H không có biện pháp nào để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng và hiện tại, chị L cũng không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với anh H do không còn tình cảm với nhau.

Nay, chị Nguyễn Yến L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Đặng Nhựt H; Về con chung: Yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Đặng Nhựt P, sinh ngày 08 7 2020, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: Chị và anh H đã thống nhất thỏa thuận xong, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không còn có yêu cầu gì khác.

Đối với anh Đặng Nhựt H không có lời trình bày tại Toà án, đồng thời, anh H cũng không cung cấp cho Toà án tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu của chị Nguyễn Yến L theo quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, thông báo dời ngày xét xử sơ thẩm theo đúng quy định của thủ tục tố tụng dân sự cho anh H, nhưng anh H không đến Tòa án. Vì vậy, theo quy định của pháp luật nếu bị đơn không cung cấp, tài liệu, chứng cứ cũng như ý kiến của mình thì Toà án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

* Về tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 12 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Yến L.

2. Về con chung: giao con chung là cháu Đặng Nhựt P, sinh ngày 08/7/2020 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu. Anh H được quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Yến L đối với anh Đặng Nhựt H.

4. Về nợ chung: Không đặt ra xem xét.

5. Án phí: Chị Nguyễn Yến L phải nộp án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là chị Nguyễn Yến L khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản chung với anh Đặng Nhựt H, nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Đặng Nhựt H có đăng ký thường trú và hiện đang sinh sống tại ấp Vĩnh L, xã Vĩnh T, huyện H, Bạc Liêu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà, chị Nguyễn Yến L có đơn xin vắng mặt, anh Đặng Nhựt H vắng mặt. Toà án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng dân sự cho anh H để tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án theo yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản chung giữa chị L và anh H theo quy định, nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L và anh H.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về hôn nhân: Chị L và anh H xây dựng hôn nhân gia đình vào năm 2019, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, đến năm 2020 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh T, huyện H, tỉnh Bạc Liêu và đã được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh T cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/07/2020. Vì thế, hôn nhân giữa chị L và anh H là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Chị L cho rằng trong quá trình chung sống với anh H do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xung đột, cự cải nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 09 năm 2021 đến nay, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H.

Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân muốn tồn tại bền vững thì phải dựa trên cơ sở tự nguyện; vợ chồng phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị L và anh H không biết tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc mà thường xuyên cự cãi, dẫn đến hiện tại chị L và anh H đã sống ly thân từ tháng 09 năm 2021 đến nay. Từ khi sống ly thân, chị L và anh H cũng không có biện pháp nào để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Trong quá trình xét xử vụ án, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh H, không có nguyện vọng hàn gắn mối quan hệ hôn nhân. Điều này cho thấy hôn nhân giữa chị L và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn giữa chị Nguyễn Yến L đối với anh Đặng Nhựt H.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị L và anh H có 01 (một) con chung tên là Đặng Nhựt P, sinh ngày 08 7 2020. Hiện cháu P đang sống cùng với chị L, chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phát.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Xét thấy, tại thời điểm giải quyết, cháu P dưới 36 tháng tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh H vắng mặt, không có ý kiến, đồng thời, anh H cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh chị L không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu P. Ngoài ra, chị L và anh H cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện giữa chị L và anh H có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của cháu P. Trong khi đó, cháu P hiện đang sống ổn định cùng với chị L, cháu vẫn phát triển bình thường. Vì vậy, đảm bảo sự phát triển bình thường và không làm xáo trộn môi trường sống của cháu ảnh hưởng đến sự phát triển về tâm sinh lý của cháu P, nên cần tiếp tục giao cháu P cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị L không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về tài sản chung: Chị L xác định trong quá trình chung sống với anh H thì chị và anh H có tạo lập tài sản chung là số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Ngoài ra, không còn tài sản chung nào khác. Tại đơn khởi kiện đề ngày 05 tháng 10 năm 2021, chị L có yêu cầu chia đôi tài sản chung với anh H. Tuy nhiên, tại đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày 14 tháng 10 năm 2021, chị L xác định: Hiện nay, phần tài sản chung trên chị L và anh H đã thống nhất thỏa thuận xong, nên chị xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề tài sản chung giữa chị và anh H. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện trên của chị L hoàn toàn là tự nguyện, nên căn cứ theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự: Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Yến L đối với anh Đặng Nhựt H.

[2.5] Về nợ chung: Chị L xác định chị và anh H không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[4] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1,3 Điều 228, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Yến L đối với anh Đặng Nhựt H, xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Yến L và anh Đặng Nhựt H.

2. Về nuôi con chung: giao con chung là cháu Đặng Nhựt P, sinh ngày 08/7/2020 cho chị Nguyễn Yến L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản chung của chị Nguyễn Yến L đối với anh Đặng Nhựt H.

4. Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Yến L phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị L đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002691 ngày 14 tháng 10 năm 2021 và đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002690 ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được đối trừ, chị L được nhận lại 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) nhận tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về