Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 409/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP B- TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 409/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B có mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1142/2022/TLST–HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 362/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022, và quyết định hoãn phiên tòa số 449/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2022.

Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1982.

Bị đơn: Ông Trần Bá L, sinh năm 1983.

Địa chỉ: 524/2, khu phố 8A, phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà H, ông L vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 08/4/2022, các lời khai tại hồ sơ bà Trần Thị H trình bày:

Bà và ông Trần Bá L kết hôn năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L Hòa, thành phố N, tỉnh N.

Hôn nhân giữa bà và ông Trần Bá L là hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình sống chung thời gian đầu có hạnh phúc nhưng từ năm 2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, tính tình vợ chồng không hợp. Ông Trần Bá L không chăm lo cuộc sống gia đình, ham mê cờ bạc, không chăm lo con cái. Cuộc sống vợ chồng thường mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã dẫn đến gia đình luôn căng thẳng. Bà và ông Trần Bá L đã nhiều lần tìm cách để giải quyết mâu thuẫn nhưng không thành. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Trần Bá L để trả tự do cho nhau.

- Về con chung: Bà và ông Trần Bá L có 02 (hai) con chung:

1/ Trần Thị Vân Th, sinh ngày: 25/6/2009.

2/ Trần Thị Vân Nh, sinh ngày: 22/9/2012 Ly hôn, bà xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ chung

- Về án phí: Bà Trần Thị H tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

*Bị đơn ông Trần Bá L vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến cũng như cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bà Trần Thị H và ông Trần Bá L kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay có đơn xin ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, Tòa án nhân dân thành phố B đã thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét ông Trần Bá L là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, do đó Tòa án không thu thập được lời khai của ông Trần Bá L và không tiến hành hòa giải được. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Xét bà Trần Thị H là nguyên đơn trong vụ án có đơn xin vắng mặt xét xử. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

Về Nội dung vụ án:

Hội đồng xét xử thấy: 

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H và ông Trần Bá L kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Theo bà H sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Ông, bà đã cố gắng nhưng không thể cải thiện được. Vì vậy nay bà làm đơn xin ly hôn với ông L để trả tự do cho nhau.

Tòa án đã xác minh ngày 12/5/2022, ngày 10/8/2022 (biên bản xác minh bút lục số 42, 43) địa phương cung cấp bà Trần Thị H và ông Trần Bá L đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: 524/2, khu phố 8A, phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai, hiện ông Trần Bá L không thường xuyên sống tại địa chỉ nhưng vẫn đi về thăm con.

Mâu thuẫn vợ chồng thì địa phương không rõ nhưng hiện tại bà H sống cùng hai người con tại địa chỉ trên; ông L đi làm ăn xa, thỉnh thoảng về thăm.

Tuy nhiên, Tòa án đã tống đạt đầy đủ theo quy định các giấy triệu tập làm việc, thông báo hòa giải để tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng ông L vắng mặt không có lý do, không có ý kiến gì về việc xin ly hôn của bà H. Điều đó thể hiện ông đã bỏ mặc và không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ.Vì vậy có căn cứ chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Trần Thị H.

[2] Về con chung: Ông L, bà H có 02 (hai) con chung:

1/ Trần Thị Vân Thư, sinh ngày: 25/6/2009.

2/ Trần Thị Vân Nhi, sinh ngày: 22/9/2012 Ly hôn bà H xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Hiện tại hai cháu Trần Thị Vân Th, Trần Thị Vân Nh đang sống chung với mẹ là bà Trần Thị H, bà H cũng xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ông Trần Bá L vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không có ý kiến gì.

Vì vậy, có căn cứ giao hai cháu Trần Thị Vân Thư, Trần Thị Vân Nhi cho bà Trần Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Tạm thời ông L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông L được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: do không thu thập được lời khai của ông Trần Bá L nên không có cơ sở để xác định tài sản chung và nợ chung của vợ chồng, và vì bà H không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra để xem xét tại phiên tòa hôm nay. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện dân sự khác.

[4] Về án phí HNGĐ-ST: Bà Trần Thị H phải chịu tiền án phí xin ly hôn là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- AÙp duïng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

-Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trần Thị H và ông Trần Bá L.

- Về con chung: Giao hai cháu Trần Thị Vân Th, Trần Thị Vân Nh cho bà Trần Thị H xin trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời ông Trần Bá L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông L được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra để xem xét.

- Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trần Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Nên cần trả với số tiền tạm ứng án phí bà Trần Thị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002332 ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 409/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:409/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về