Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, Tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số 796/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021 về việc “tranh chấp Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐST - HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1987.

Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1987.

Đều trú quán: Tổ 3, phường PĐP, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt chị H, vắng mặt anh T).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày: Tôi và anh Lê Thanh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UNBD xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên vào năm 2011.

Vợ chồng tôi sống hạnh phúc được khoảng một thời gian đầu. Sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn căng thẳng do anh T có dấu hiệu chơi bời, rượu chè say xỉn, nợ nần và ngoại tình và thường xuyên bỏ nhà đi thâu đêm suốt tháng, khi say xỉn thì thường xuyên xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm và đe dọa tôi. Tôi và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo tạo cơ hội cho anh T sửa chữa và thay đổi nhưng đến nay anh T vẫn không thay đổi và ngày càng trở lên trầm trọng hơn và vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và không thể hòa hợp được nữa và vợ chồng đã ly thân từ đầu đầu năm 2021 đến nay.. Nay tôi xác định vợ chồng không còn tình cảm và không thể đoàn tụ được, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Lê Lương B, sinh ngaỳ 18.02.2012 và cháu Lê Lương Hiền T, sinh ngày 22.11.2018. Tôi có nguyện vọng nuôi 02 con chung và không đề anh T nghị cấp dưỡng nuôi con chung.

Tôi hiện tại đang làm nghề giáo viên dậy tại trường Cao đẳng T, thu nhập trung bình 6.000.000đ/tháng và ngoài ra tôi có làm thêm về trang trí nội ngoại thất sự kiện ngoài giờ khoảng 20 triệu đến 30.000.000đ/tháng và tôi có nhà riêng và đảm bảo việc nuôi con.

Về tài sản chung và khoản nợ chung: Chúng tôi xin tự thỏa thuận và không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Tôi tự nguyện chịu toàn bộ án phí theo quy định.

Ý kiến bị đơn anh T: Tại bản tự khai ngày 22/12/2021 anh T xác định có đăng ký kết hôn với chị H tại huyện Phú Lương vào năm 2011. Có 02 con chung là Lê Lương B và Lê Lương Huyền T(2012 - 2018), nguyện vọng ly hôn: Nhất trí ly hôn. Lê Thanh T có nguyện vọng nuôi 02 con Lê Lương B + Lê Lương Huyền T. Về tài sản chung, nợ chung: Không.

Tòa án đã giao giấy triệu tập và thông báo phiên hòa giải cho anh T nhưng anh T đều không đến Tòa để làm rõ lời khai và hòa giải công khai chứng cứ được nên Tòa án tiến hành hòa giải không được. Do vậy phải mở phiên tòa xét xử công khai ngày hôm nay.

Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con theo quy định.

Tại phiên tòa đại diện VKS phát biểu: Tòa án đã thụ lý và giải quyết vụ án theo quy định. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng các quy định. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định, bị đơn chưa chấp hành theo quy định. Về nội dung: Đề nghị HĐXX xem xét cho chị H được ly hôn anh T. Về con chung: Giao cho chị H nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Lê Lương B, sinh ngaỳ 18.02.2012 và cháu Lê Lương Hiền T, sinh ngày 22.11.2018. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu, nên không xem xét.

Về tài sản chung, và nợ chung: Chị H không đề nghị yêu cầu, do đó không xem xét giải quyết. Về án phí chị H phải chịu án phí theo quy định. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án..

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra công khai tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự và đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn anh T có hộ tạm trú tại thành phố Thái Nguyên và đang sinh sống tại Tổ 3, phường PĐP, thành phố Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Lê Thanh T để tham gia tố tụng nhưng anh T đều vắng mặt. Tại phiên tòa anh T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, chị H đề nghị xét xử vắng mặt anh T, đại diện VKS đề nghị HĐXX xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử Quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

[2] Về nội dung:

2.1 Về hôn nhân: Chị Lương Thị H và anh Lê Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, việc đăng ký kết hôn đã được thực hiện tại UNBD xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên vào năm 2011, là cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định nên là hôn nhân hợp pháp.

Chị H xác định nguyên nhân dẫn đến vợ chồng ly hôn là do trong cuộc sống chung vợ chồng phát sinh mâu thuẫn căng thẳng do anh T có dấu hiệu chơi bời, rượu chè say xỉn... thường xuyên bỏ nhà đi, khi say xỉn thì thường xuyên xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm và đe dọa chị. Chị H và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo tạo cơ hội cho anh T sửa chữa và thay đổi, nhưng đến nay anh T vẫn không thay đổi và ngày càng trở lên trầm trọng hơn và vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và không thể hòa hợp được nữa và vợ chồng đã ly thân từ đầu đầu năm 2021 đến nay; Tại bản tự khai anh T cũng nhất trí ly hôn.

Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng với anh T không còn nên kiên quyết xin được ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống gia đình không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên nên cần chấp nhận đơn khởi kiện về ly hôn của chị Lương Thị H, cho chị H được ly hôn anh Lê Thanh T là phù hợp với thực tế và đúng quy định tại các Điều 51, 56 luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh T có Có 02 con chung là cháu Lê Lương B, sinh ngaỳ 18.02.2012 và cháu Lê Lương Hiền T, sinh ngày 22.11.2018, hiện cháu B và cháu T đang ở cùng với chị H và cháu B có nguyện vọng ở với mẹ, anh T không đến Tòa để hòa giải và xét xử. Hội đồng xét xử thấy hiện tại các cháu còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn và chị H có nguyện vọng tha thiết xin được nuôi 02 con, do đó cần giao cháu B và cháu T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con khôn lớn trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Anh T được quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu, do đó HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không đề nghị giải quyết. HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 và 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Áp dụng Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị H. Cho chị Lương Thị H được ly hôn anh Lê Thanh T.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Lê Lương B, sinh ngaỳ 18.02.2012 và cháu Lê Lương Hiền T, sinh ngày 22.11.2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung khôn lớn trưởng thành (đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Anh T được quyền đi lại thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: HĐXX không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản và các khoản nợ chung: HĐXX không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu 300.000đ án phí Ly hôn sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000797 ngày 17/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về