Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 153/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 153/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận B xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 34/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXX-ST ngày 17 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1992 HKTT: Tổ 1 (cũ là tổ 2) phường T3, quận B, Hà Nội Chỗ ở: số 18/11 đường HVL, khu phố 4, phường T, quận T2, TP Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Ngọc T, sinh năm 1989 HKTT: Tổ 1 (cũ là tổ 2) phường T3, quận B, Hà Nội Hiện ở: Số 8 ngách 129/5/35 phố GQ, tổ 1, phường T3, quận B, TP Hà Nội. (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2022 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Chị và anh Trần Ngọc T kết hôn tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 09/09/2010 tại UBND phường T3, quận B, Hà Nội.

Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng có quan điểm, lối sống không phù hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi vã trong nhiều vấn đề, từ kinh tế gia đình đến nuôi dạy con cái. Đến tháng 10/2020 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, anh chị đã cố gắng hàn gắn, gia đình hai bên cũng đã nhiều lần hòa giải nhưng đều không có kết quả, mâu thuẫn của vợ chồng vẫn không thuyên giảm. Mâu thuẫn trầm trọng từ tháng 10/2020, không ai quan tâm đến ai, hôn nhân không có H phúc nên anh chị đã sống ly thân, mỗi người một nơi, chấm dứt hoàn toàn quan hệ vợ chồng từ đó đến nay. Nay, chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết, yêu cầu được ly hôn với anh Trần Ngọc T.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là: Trần Ngọc Phương A, sinh ngày 04/12/2011 và Trần Ngọc Tuấn V, sinh ngày 13/3/2016. Cả hai con hiện đang ở với bố và ông nội. Sau ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Phương A, anh T tiếp tục trực tiếp nuôi cháu V. Không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con. Hiện tại chị đang làm nhân viên tại Công ty cổ phần nhà hàng KLP. Thu nhập hàng tháng khoảng 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng, đủ điều kiện để nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

* Anh Trần Ngọc T vắng mặt nhưng đã có lời khai trình bày:

Anh và chị Vũ Thị H kết hôn tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 09/09/2010 tại UBND phường T3, quận B, Hà Nội.

Sau khi kết hôn anh chị sống H phúc được vài năm thì xảy ra nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống, không hòa hợp về tính cách, không có tiếng nói chung, luôn bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cãi vã. Mâu thuẫn đỉnh điểm là vào năm 2014, anh chị đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Hai bên gia đình đã tiến hành hòa giải nhưng mâu thuẫn giữa hai anh chị vẫn không thuyên giảm. Hiện tại, mối quan hệ của cả hai căng thẳng do nhiều mâu thuẫn trầm trọng không thể hòa giải được, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Anh chị đã mâu thuẫn nhiều năm nên anh xin từ chối hòa giải tại tòa án và đề nghị tòa án giải quyết cho anh và chị H được ly hôn.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Trần Ngọc Phương A, sinh ngày 04/12/2011 và Trần Ngọc Tuấn V, sinh ngày 13/03/2016. Hiện tại, 2 con đang sống cùng anh và bố đẻ anh. Sau khi li hôn, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và dạy dỗ hai con chung. Mẹ sẽ thăm nom hai con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản và nợ chung: Anh chị không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa Án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B trình bày quan điểm:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc giải quyết vụ án. Nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Mâu thuẫn của chị H và anh T trầm trọng từ năm 2014, nguyên nhân do không có tiếng nói chung, không hòa hợp về tính cách nên xảy ra nhiều mâu thuẫn. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Trần Ngọc Phương A, sinh ngày 04/12/2011 và Trần Ngọc Tuấn V, sinh ngày 13/03/2016. Hiện tại, 2 con đang sống cùng anh T và ông nội. Cháu Phương A là con gái, có nguyện vọng xin được ở với mẹ vì vậy đề nghị HĐXX giao chị H trực tiếp nuôi cháu Phương A, anh T trực tiếp nuôi cháu V. Không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con. Về tài sản và nợ chung: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Đương sự phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy:

Về tố tụng:

[1] Ngày 18-01-2022 chị Vũ Thị H có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Trần Ngọc T, Trú tại: Số 8, ngách 129/5/35 GQ, tổ 1, phường T3, quận B, thành phố Hà Nội. Tòa án nhân dân quận B thụ lý vụ án Hôn nhân gia đình số 34/TLST-HNGĐ ngày 10-3-2022 là đúng quan hệ pháp luật, đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn là chị Vũ Thị H, bị đơn là anh Trần Ngọc T đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vắng mặt đương sự nêu trên là đúng theo quy định tại khoản 1 điều 228 BLTTDS.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Trần Ngọc T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/09/2010 tại Ủy ban nhân dân phường T3, quận B, Hà Nôi. Hôn nhân giữa chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, anh chị sống hòa thuận đến năm 2014 thì mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cách sống, cách nuôi dậy con cái và cách làm ăn kinh tế. Vợ chồng không có tiếng nói chung, không có sự chia sẻ và quan tâm đến nhau. Mỗi người sống một nơi, ly thân chấm dứt quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2020. Xét thấy mâu thuẫn của chị H, anh T đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đều xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị H xin ly hôn, anh T đồng ý nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là phù hợp với nguyện vọng của anh chị và theo quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về con chung: Xét thấy hiện nay cả hai con chung của anh T, chị H đang ở cùng Bố và ông Nội. Sau ly hôn, anh T có nguyện vọng được nuôi cả 2 con chung, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Trần Ngọc Phương A và đồng ý để anh T nuôi cháu Trần Ngọc Tuấn V. HĐXX nhận thấy, cháu Phương A là con gái, đang ở độ tuổi trưởng thành nên rất cần sự chỉ bảo, hướng dẫn từ phía người mẹ về giới tính cũng như cần sự quan tâm, dạy dỗ để phát triển tâm sinh lý tuổi dậy thì của cháu. Hơn nữa, bản thân cháu cũng có nguyện vọng xin được ở cùng mẹ nên thấy giao cháu Phương A cho chị H trực tiếp nuôi là phù hợp. Anh T sẽ tiếp tục nuôi cháu Trần Ngọc Tuấn V là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của cả hai anh chị và đúng quy định Điều 81 Luật Hôn nhân Gia đình. Không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con cho ai.

[5] Về tài sản và nợ chung: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Các đương sự phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng điều 56, 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị H với anh Trần Ngọc T. Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Trần Ngọc T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 119/2010 ngày 09/9/2010 của Ủy ban nhân dân phường T3 cấp cho chị Vũ Thị H và anh Trần Ngọc T hết hiệu lực pháp luật.

2- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Trần Ngọc Phương A, sinh ngày 04/12/2011 và Trần Ngọc Tuấn V, sinh ngày 13/03/2016. Sau ly hôn, giao chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phương A, anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con.

Quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3 - Về tài sản và nợ chung: Anh chị không yêu cầu giải quyết.

4 - Án phí: Chị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nay được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị đã nộp theo biên lai 0064948 ngày 10/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận B.

Án xử công khai sơ thẩm.

Chị H và anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 153/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:153/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về