TÒA ÁN NHÂN DẬN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 81/2023/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CHIA TÀI SẢN CHUNG VÀ NỢ CHUNG
Trong từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý: 188/2023/TLST-HNGĐ, ngày 06/4/2023 về “Tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung và nợ chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2023/QĐXX-ST, ngày 08 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ A, sinh năm 1978, Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Phạm Hữu K năm 1977; Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng thương mại cổ phần Q sở chính: Tòa nhà MB, Số A, phường T, quận C, thành phố Hà Nội Người đại diện theo ủy quyền ông Tăng N B chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh V, Địa chỉ: Số A, H, Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Chị Nguyễn Thị Mỹ A và anh Phạm Hữu K1 gia đình hai bên chấp thuận tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H ngày 28/02/2006. Hiện nay chị M và anh K2 xây nhà và đang sinh sống tại địa chỉ số G, ấp P, P, L, Vĩnh Long Quá trình chung sống với anh K3 mấy hạnh phúc, đến nay không thể duy trì hôn nhân được nữa. Do vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa, anh K4 xuyên đánh đập, sỉ nhục, thường rượu chè, không chăm lo làm ăn, dần dần dẫn đến mâu thuẫn gia đình càng nhiều. Đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh K3 sửa đổi, dẫn đến không còn tiếng nói chung nên hôn nhân không thể tiếp tục được nữa. Ngoài ra, anh K5 có mối quan hệ với người phụ nữ khác và chị M1 A đã bắt gặp anh K6 người phụ nữ đó. Từ những lý do trên dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nữa, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục nên yêu cầu được ly hôn với anh K
+ Về con chung: có hai con chung: Phạm Hồng X năm 1997 và Phạm Trí C năm 2002. Hiện nay đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung:
+ Mảnh đất thứ nhất: Thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long do anh Phạm Hữu K8 tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên đất có căn nhà cấp 4 mới xây. Hiện nay anh K2 thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên để vay ngân hàng là 800 triệu đồng. Chị MA yêu cầu được nhận thửa đất này gắn liền căn nhà. Chị MA không yêu cầu đo đạc lại thửa đất, thống nhất kết quả định giá theo biên bản định giá và yêu cầu chia theo tài sản biên bản định giá tài sản.
+ Mảnh đất thứ hai: Ngày 17/8/2018, vợ chồng có nhận chuyển nhượng thửa đất 53, tờ bản đồ 15, diện tích hơn 119,1 m2, loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc khóm D, phường H, TP ., tỉnh Vĩnh Long của bà Phạm Bạch C1 bên có lập hợp đồng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng C2 ngày 17/8/2018. Giá chuyển nhượng 262 triệu đồng nhưng đã trả trước 230.000.000đ nhưng bên chuyển nhượng chưa thực hiện xong việc chuyển nhượng. Chị M đồng ý giao lại anh K9 đất này và anh K10 trả lại cho chị một nửa số tiền là 115.000.000đ. Chị MA yêu cầu rút lại chia thửa đất này vì chưa thực hiện xong hợp đồng chuyển nhượng, chưa nhận được quyền sử dụng đất.
Ngoài ra tài sản chung có mua 01 chiếc xe môtô hiệu AIRBLACK biển số 64D1- X mua năm 2016 với giá 49,5 triệu đồng. Theo giá trị hiện tại có giá là 40.000.000đ. Chiếc xe do anh K11 nên đồng ý giao anh K12 xe này và yêu cầu trả lại 1/2 giá trị chiếc xe.
- Về nợ chung:
+ Nợ chung của chị M và anh K13 800.000.000đ do vay Ngân hàng thương mại cổ phần Q1(M2) - chi nhánh V xây nhà, phần nợ này chia làm 02 phần bằng nhau. Chị MA trả 400.000.000đ và anh K10 trả 400.000.000đ cho ngân hàng.
- Về nợ riêng của anh K14 chị M:
+ Về tiền lãi ngân hàng: đóng lãi ngày 25/02/2022: 9.200.000đ; đóng lãi ngày 04/3/2022: 6.700.000đ; đóng lãi ngày 23/4/2022: 6.000.000đ và tiền mua điện thoại: 6.500.000đ; đóng lãi ngày 26/12/2022: 2.550.000đ; đóng lãi ngày 27/01/2023: 6.800.000đ và đóng lãi ngày 25/02/2023: 6.200.000đ. Tổng cộng: 43.950.000đ, chị yêu cầu anh K15 lại 21.975.000d.
+ Về tiền đóng hụi: đóng hụi chết tổng cộng: 30.700.000đ. Chị M yêu cầu anh K15 lại chị số tiền 15.350.000đ. Còn những lần đóng hụi chết sau chị tự đóng không còn liên quan đến anh K16.
+ Tiền mua sắt làm lò ấp trứng 19.500.000đ; tiền đưa T(công nhân) đi mua sắt thêm làm thêm lò ấp trứng: 1.600.000đ; 15.000.000đ tiền mua 15 mét vuông đất của em ruột. Tổng số: 36.100.000đ. Chị M yêu cầu anh K15 lại chị 18.050.000đ.
+ Ngoài ra, anh K5 nợ riêng 132.000.000đ (do anh K17 mượn để có tiền đáo hạn ngân hàng cho lần vay trước); 15.000.000đ tiền mua bảo hiểm; 11.200.000đ nhờ chị M mượn của L ruột chị và đưa 5.500.000đ dẫn bà N đi Kiên G. Tổng cộng: 170.700.000đ.
Tổng số tiền anh K14 chị M là 226.525.000đ. Chị M yêu cầu anh K15 lại chị 226.525.000đ.
- Về tài sản riêng: không có. Ngoài ra không có trình bày gì thêm.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Hữu K18 bày: Anh Phạm Hữu K19 thống nhất lời trình bày của về quan hệ hôn nhân và anh đồng ý ly hôn.
Có hai con chung: Phạm Hồng X năm 1997 và Phạm Trí C năm 2002. Hiện nay đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung:
+ Mảnh đất thứ nhất: Thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm một mảnh đất ngụ tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Longdo anh Phạm Hữu K8 tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên đất có căn nhà cấp 4 mới xây. Hiện nay anh K2 thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên để vay ngân hàng là 800 triệu đồng. Anh K yêu cầu được nhận thửa đất này gắn liền căn nhà. Giá nhà và đất của Hội đồng định giá đưa ra thấp hơn so với giá trị thật. Anh đồng ý không đo đạc lại thửa đất này. Theo biên bản định giá của Tòa án thì anh đồng ý giá trị tài sản trên đất, do không đồng ý giá đất là 71.000đ/m2 nên anh K20 cầu Tòa án thẩm định lại theo giá thị trường, theo anh K21 thì giá thị trường là 2.000.000đ/m2.
+ Mảnh đất thứ hai: Ngày 17/8/2018, có nhận chuyển nhượng thửa đất 53, tờ bản đồ 15, diện tích hơn 119,1m2, loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc khóm D, phường H, TP ., tỉnh Vĩnh Long của bà Phạm Bạch C1 bên có lập hợp đồng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng C2 ngày 17/8/2018. Giá chuyển nhượng 262.000.000đ, đã trả trước 230.000.000đ nhưng bên chuyển nhượng chưa thực hiện xong việc chuyển nhượng. Anh K22 ý để lại thửa đất này không chia vì chưa giải quyết xong với bà Phạm Bạch C2 Ngoài ra có mua 01 chiếc xe môtô hiệu AIRBLACK biển số 64D1-X mua năm 2016 với giá 49.500.000đ. Anh K22 ý nhận chiếc xe này.
- Về nợ chung:
+ 800.000.000đ vay Ngân hàng thương mại cổ phần Q1(M2) - chi nhánh V là nợ riêng của chị A vay để kinh doanh lúa gạo riêng.
Tại biên bản hoà giải ngày 26/5/2023, anh Phạm Hữu K18 bày về phần nợ riêng:
+ Mượn để trả đáo hạn ngân hàng: 138.000.000đ.
+ Về tiền đóng hụi: 15.350.000đ.
+ Tiền mua 15 mét vuông đất: 15.000.000đ + Lãi ngân hàng: 21.975.000 đ.
+ Tiền mượn dùm: 11.200.000đ Không đồng ý: tiền mua sắt làm lò ấp trứng 19.500.000đ; tiền đưa T(công nhân) đi mua sắt thêm làm lò ấp trứng: 1.600.000đ và 15.000.000đ tiền mua bảo hiểm khi vay; 5.500.000đ dẫn bà N đi Kiên G.
- Về tài sản riêng: không có.
Tại biên bản hoà giải ngày 26/9/2023, anh K23 ý kiến:
Về nợ riêng của anh K + 120.000.000đ mượn để trả đáo hạn ngân hàng.
+ 15.350.000đ tiền đóng hụi + 15.000.000đ tiền mua 15 mét vuông đất Không đồng ý: tiền mua sắt làm lò ấp trứng 19.500.000đ; tiền đưa T(công nhân) đi mua sắt thêm làm lò ấp trứng: 1.600.000đ và 15.000.000đ tiền mua bảo hiểm vay; 5.500.000đ dẫn bà N đi Kiên G. Về tiền lãi ngân hàng: 21.975.000đ; tiền nhờ mượn dùm: 11.200.000 đ; tiền mua điện thoại: 6.500.000đ.
- Về tài sản riêng: không có.
Ngoài ra không có trình bày gì thêm Tại phiên tòa: Có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.
Nguyên đơn yêu cầu: ly hôn với anh Phạm Hữu K19; Tài sản chung: xác định tài sản chung (Giá trị đất + nhà ) có giá trị theo đơn khởi kiện lúc ban đầu là 1.200.000.000đ để chia. Chị MA yêu cầu nhận thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm toạ lạc ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long gắn liền với tài sản khác trên đất. Về nợ chung: chị M có ý kiến nhận trả nợ Ngân hàng M1 số tiền gốc 800.000.000đ và 5.260.274đ tiền lãi. Sẽ trả lại phần chênh lệch cho anh K24 khi khấu trừ vào số nợ ngân hàng phải trả. Còn 11 cây mai vàng không yêu cầu.
Chị MA rút lại yêu cầu như sau: chiếc xe môtô hiệu AIRBLACK biển số 64D1- X mua năm 2016 với giá 49.500.000đ và thửa đất 53, tờ bản đồ 15, diện tích hơn 119,1m2, loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc khóm D, phường H, TP ., tỉnh Vĩnh Long của bà Phạm Bạch C3 mua sắt làm lò ấp trứng 19,5 triệu đồng; tiền đưa T (công nhân) đi mua sắt thêm làm ấp trứng: 1,6 triệu đồng và 15 triệu đồng tiền mua bảo hiểm vay.
Phần anh K14 riêng chị M yêu cầu anh K15 các khoản như sau:
+ Tại đơn khởi kiện cũng như các biên bản hòa giải yêu cầu anh K15 138.000.000đ nhưng tại phiên tòa chỉ yêu cầu anh K15 120.000.000đ tiền vay đáo hạn ngân hàng;
+ 15.350.000đ tiền đóng hụi;
+ tiền mua 15m2 của em chị M là 15.000.000đ;
+ tiền mượn anh L 11.200.000đ, + tiền lãi ngân hàng 21.975.000đ.
+ tiền mua điện thoại 6.500.000đ + tiền dẫn bà N đi Kiên G là 5.500.000đ.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm quyền thụ lý vụ án và quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn ly hôn, tài sản chung và nợ chung, bị đơn đang sinh sống tại xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long Theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung, nợ chung nên Tòa án nhân dân huyện Long Hồ thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng đúng theo quy định tại Điều 68 BLTTDS năm 2015.
Về thu thập chứng cứ: thẩm phán tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc định giá tài sản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu để giải quyết vụ án đúng quy định tại Điều 101, 104 BLTTDS.
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của BLTTDS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về việc xét xử.
Đương sự: nguyên đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 71 và 234 BLTTDS.
Bị đơn cơ bản thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cơ bản đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 73 BLTTDS.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 147, 165, 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 213, 219 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 119, 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 463, 466 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 9, 27, 37, 33, 51, 56, 59, 60, 62 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 95, 100 Luật đất đai năm 2013; khoản 1, 4 Điều 26, điểm a khoản 5 và điểm b khoản 7 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị MA đối với yêu cầu chia thửa đất số 53; chia chiếc xe mô tô hiệu AIRBLACK, biển kiểm soát 64D1-X và yêu cầu anh K15 tiền mua sắt làm lò ấp trứng, tiền đưa anh T mua sắt làm lò ấp trứng, tiền mua bảo hiểm.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A.
- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Mỹ A được ly hôn với anh Phạm Hữu K19 - Về con chung, cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét giải quyết.
- Về tài sản chung:
+ Chia cho chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền sử dụng thửa đất 1661 gắn liền với căn nhà cấp 4 và 02 cây đu đủ, 03 cây chuối, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6m2, loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long
+ Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q1- chi nhánh V1 đến ngày 19/10/2023 số tiền nợ gốc 800.000.000 đồng và nợ lãi là 5.260.274 đồng và tiếp tục trả nợ theo hợp đồng cho vay số 52679.22.860.24148924.TD và hợp đồng thế chấp số 75769.22.860.24148924.BĐ cùng ngày 13/12/2022.
+ Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A có nghĩa vụ trả lại cho Phạm Hữu K25 tiền 197.669.863 đồng đối với 1/2 giá trị thửa đất 1661 gắn liền với căn nhà cấp 4 và 02 cây đu đủ, 03 cây chuối, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6m2, loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long
+ Buộc anh Phạm Hữu K26 có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Mỹ A số tiền 183.525.000đ.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A yêu cầu anh K15 số tiền 5.500.000đ dẫn bà N đi Kiên G, tiền mua điện thoại 6.500.000đ.
Chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất theo quy định.
Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A phải chịu số tiền 28.262.397đ, anh Phạm Hữu K26 chịu số tiền 37.138.647d Về chi phí tố tụng: buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A và anh Phạm Hữu K27 người phải chịu 600.000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn, người có quyền lợi liên quan vắng mặt nên Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.
Các đương sự không yêu cầu tiến hành đo đạc lại thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L,tỉnh Vĩnh Longnên Tòa án phần diện tích trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DI 676018 do Sở T1 tỉnh V cấp ngày 11/11/2022 để làm căn cứ để giải quyết vụ án.
[2]. Về nội dung:
* Về quan hệ hôn nhân: Các đương sự đã quen biết nhau rồi tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H ngày 28/02/2006 là phù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, do đó quan hệ hôn nhân là hợp pháp và được pháp luật công nhận.
- Xét yêu cầu ly hôn của chị M là có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì: cuộc sống hôn nhân giữa chị Mỹ A và anh K có mâu thuẫn trầm trọng nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung. Theo quy định khoản 1 Điều 19 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Hiện nay chị Mỹ A và anh K2 không còn sống chung với nhau nữa. Cho thấy hôn nhân của họ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án anh K28 có ý kiến đồng ý ly hôn với chị Mỹ A. Do đó, yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Mỹ A là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
- Về con chung: Phạm Hồng X năm 1997 và Phạm Trí C năm 2002. Hiện nay đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Thửa đất 53, tờ bản đồ 15, diện tích hơn 119,1m2, loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc khóm D, phường H, TP ., tỉnh Vĩnh Longcủa bà Phạm Bạch C1 bên có lập hợp đồng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng C2 ngày 17/8/2018 nhưng bên chuyển nhượng chưa thực hiện xong việc chuyển nhượng. Ý kiến của nguyên đơn rút lại yêu cầu và trong các phiên hoà giải bị đơn cũng đồng ý nên không xét.
Xét thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long do anh Phạm Hữu K8 tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên đất có các tài sản như sau: Căn nhà nhà độc lập, móng cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường, nền lát gạch men, có trần diện tích 207,31m2; Nhà trệt liên kế, móng khung cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường lửng + khung sắt, nên gạch men, không trần diện tích 44,2m2; Mái che liên kế, khung cột thép tiền chế, mái tole, không vách, nền lát gạch men, không trần diện tích 32,67m2; Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường lửng + sắt; Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường dày 100; Sân gạch men diện tích 127,758m2. Ngoài ra có 02 cây đu đủ, 03 cây chuối và 11 cây mai vàng.
Nguyên đơn và bị đơn đang thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất nêu trên để vay Ngân hàng M3- chi nhánh V2 số tiền 800.000.000đ.
Tại phiên toà, chị M yêu cầu được trả nợ ngân hàng, số tiền còn lại sẽ chia cho anh K Chị MA đồng ý lấy giá trị nhà, tài sản và đất là 1,2 tỉ đồng. Theo Biên bản định giá thì giá trị tài sản trên đất là 845.520.431đ và giá trị đất 45.198.600đ (tương đương 71.000đ/m2 x 636,6m2).Với giá 1.200.000.000đ cao hơn giá trị của Biên bản định giá nên Tòa án chấp nhận.
Hiện nay thửa đất này chị M và anh Phạm Hữu K29 thế chấp Ngân hàng thương mại cổ phần Q1 - chi nhánh V3 tiền 800.000.000đ. Tại thông báo dư nợ ngày 19/10/2023 thì anh K30 chị M còn nợ gốc 800.000.000đ và lãi 5.260.274đ. Chị Mỹ A trình bày mục đích vay tiền để xây dựng nhà ở tại thửa đất 1661, mặt khác tại Biên bản hoà giải ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ anh K31 nhận số tiền vay Ngân hàng là nợ chung trong thời kì hôn nhân. Lời khai của anh K3 nhất quán và anh K3 có chứng cứ gì chứng minh đây là nợ riêng của chị M. Căn cứ Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình thì đây là nợ chung trong thời kì hôn nhân của chị M1 A và anh K. Vì vậy, mỗi người phải chịu 1/2 nợ gốc là 400.000.000đ và 1/2 tiền lãi 2.630.137đ.
Chị Mỹ A hiện nay đang quản lý sử dụng thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long gắn liền cùng với các tài sản trên đất gồm:
+ Căn nhà nhà độc lập, móng cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường, nền lát gạch men, có trần diện tích 207,31m2;
+ Nhà trệt liên kế, móng khung cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường lửng + khung sắt, nên gạch men, không trần diện tích 44,2m2;
+ Mái che liên kế, khung cột thép tiền chế, mái tole, không vách, nền lát gạch men, không trần diện tích 32,67m2;
+ Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường lửng + sắt;
+ Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường dày 100;
+ Sân gạch men diện tích 127,758m2.
Do chị M không còn chỗ ở nào khác vì vậy giao nguyên đơn thửa đất này cùng các tài sản nêu trên đất là phù hợp. Tài sản thế chấp giao chị Mỹ A và chị M cũng đồng ý trả nợ cho Ngân hàng nên Tòa án buộc chị M phải có trách nhiệm trả số tiền gốc và lãi cho Ngân hàng là 805.260.274đ. Chị Mỹ A thực hiện nghĩa vụ trả nợ do đó công nhận thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Longcho chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền sử dụng.
Xét hợp đồng thế chấp số 75769.22.860.24148924 ngày 13/12/2022 giữa chị Nguyễn Thị Mỹ A, anh Phạm Hữu K32 Ngân hàng thương mại cổ phần Q1- chi nhánh V4 hợp pháp đúng theo quy định của pháp luật. Nếu chị MA không thanh toán xong nợ gốc và lãi thì Ngân hàng có quyền phát mãi tài sản đã thế chấp là thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long Phần tài sản chung có giá trị là 1.200.000.000đ, sau khi trừ số nợ gốc và lãi là 805.260.274đ thì còn lại 394.739.726đ. Chị Mỹ A phải có trách nhiệm trả cho anh K33 nửa giá trị là 197.369.863đ.
Xét cây trồng trên đất gồm: 02 cây đu đủ trị giá 360.000đ và 03 cây chuối trị giá 240.000đ. Tổng cộng: 600.000đ, số cây trồng này giao cho nguyên đơn nên chị MA có trách nhiệm trả lại anh K25 tiền 300.000đ (bằng 1/2). Tổng cộng nguyên đơn trả lại bị đơn số tiền chênh lệch tài sản là 197.669.863đ. Còn 11 cây mai vàng theo Biên bản định giá không định giá được nên tại phiên toà đương sự không yêu cầu nên không xét.
Xét về nợ riêng của anh K14 chị MA: Anh K34 thừa nhận các khoản nợ như sau: 120.000.000đ tiền vay đáo hạn ngân hàng; 15.350.000đ tiền đóng hụi; tiền mua 15m2 của em chị M là 15.000.000đ; tiền mượn anh L 11.200.000đ, tiền lãi ngân hàng 21.975.000đ. Tổng cộng: 183.525.000đ nên yêu cầu này của chị M là có cơ sở để chấp nhận.
Còn số tiền 5.500.000đ đi với bà N đi Kiên G và 6.500.000đ tiền mua điện thoại, phía anh K3 thừa nhận và nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh về hai khoản nợ này do đó các yêu cầu này không có cơ sở để chấp nhận.
Tại phiên toà nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A rút lại yêu cầu: Chia chiếc xe môtô hiệu AIRBLACK biển số 64D1-X mua năm 2016 với giá 49.500.000đ. Tiền mua sắt làm lò ấp trứng 19,5 triệu đồng; tiền đưa T(công nhân) đi mua sắt thêm làm lò ấp trứng: 1,6 triệu đồng và 15 triệu đồng tiền mua bảo hiểm vay. Do đó, Tòa án đình chỉ không xem xét.
* Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a, b khoản 5 và khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định: nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ. Chị M được hưởng giá trị tài sản 600.300.000đ và nghĩa vụ đối với ngân hàng 402.630.137đ nên chị Mỹ A phải chịu án phí 28.012.297đ. Tổng cộng chị MA phải chịu án phí là 28.262.397đ làm tròn 28.262.000đ được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 26.800.000đ theo biên lai thu tiền Số 0004895 ngày 06/4/2023 mà chị MA nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ. Chị Mỹ A con phải nộp thêm 1.462.000đ.
Anh K26 chịu án phí 37.138.647 như sau: phần tài sản chung 600.300.000đ, nghĩa vụ đối với ngân hàng D 183.525.000đ số tiền nợ riêng trả chị MA là 37.138.647đ.
* Về chi phí tố tụng khác: Tổng chi phí là 1.200.000đ, mỗi người phải chịu 1/2 là 600.000đ. Chị Mỹ A phải chịu 600.000đ, chị Mỹ A đã nộp tạm ứng trước nên không phải nộp thêm nữa.
Anh K26 chịu 600.000đ để hoàn trả lại chị MA vì chị M đã nộp tạm ứng trước.
Xét ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ để chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 104, Điều 147, Điều 150, Điều 165 và Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Các Điều 119, 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 463, 466 Bộ luật Dân sự 2015;
- Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Các điều 9, 27, 33, 37, 51, 56, 58, 59, 60, 62 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
- Điểm a, b khoản 5 và điểm b khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ A được ly hôn với anh Phạm Hữu K19 2. Về con chung: Phạm Hồng X năm 1997 và Phạm Trí C năm 2002. Hiện nay đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung:
- Công nhận chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền sử dụng thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Longdo anh Phạm Hữu K19 đứng tên quyền sử dụng đất (Kèm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 676018 do Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V ngày 11/11/2022).
- Công nhận chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền sở hữu căn nhà cấp 4 và các tài sản khác nằm trên thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6m2 ấp P, xã P loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Long như sau:
+ Căn nhà nhà độc lập, móng cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường, nền lát gạch men, có trần diện tích 207,31m2;
+ Nhà trệt liên kế, móng khung cột bê tông cốt thép, mái tole, vách tường lửng + khung sắt, nên gạch men, không trần diện tích 44,2m2;
+ Mái che liên kế, khung cột thép tiền chế, mái tole, không vách, nền lát gạch men, không trần diện tích 32,67m2;
+ Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường lửng + sắt;
+ Hàng rào móng đà cột bê tông cốt thép, tường dày 100;
+ Sân gạch men diện tích 127,758m2 + 02 cây đu đủ và 03 cây chuối (Kèm biên bản định giá ngày 13/7/2023) - Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Q2 tiền gốc 800.000.000đ và tiền lãi tính đến ngày 19/10/2023 là 5.260.274đ và tiếp tục trả nợ theo hợp đồng cho vay số 52679.22.860.24148924 và hợp đồng thế chấp số 75769.22.860.24148924 cùng ngày 13/12/2022.
Trong trường họp chị Nguyễn Thị Mỹ A không thanh toán số tiền gốc và lãi thì Ngân hàng thương mại cổ phần Q1- chi nhánh V5 quyền phát mãi thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Longtheo Hợp đồng thế chấp sổ 75769.22.860.24148924 ngày 13/12/2022.
- Buộc chị Nguyễn Thị Mỹ A trả lại giá trị 1/2 thửa đất 1661, tờ bản đồ số 6, diện tích 636,6 m2 loại đất cây lâu năm tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Vĩnh Longvà các tài sản gắn liền: căn nhà cấp 4; 02 cây đu đủ; 03 cây chuối là 197.669.836đ làm tròn 197.669.800đ (Một trăm chín mươi bảy triệu, sáu trăm sáu mươi chín ngàn, tám trăm đồng).
- Buộc anh Phạm Hữu K26 có nghĩa vụ trả chị Nguyễn Thị Mỹ A số tiền 183.525.000đ (Một trăm tám mươi ba triệu, năm trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
- Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mỹ A yêu cầu anh K15 số tiền 5.500.000đ dẫn bà N đi Kiên G và tiền mua điện thoại 6.500.000đ.
*Đình chỉ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ A về việc yêu cầu:
- Chia chiếc xe môtô hiệu AIRBLACK biển số 64D1-X mua năm 2016 với giá 49.500.000đ.
- Thửa đất 53, tờ bản đồ 15, diện tích hơn 119,1m2, loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc khóm D, phường H, TP., tỉnh Vĩnh Longnhận chuyển nhượng của bà Phạm Bạch C2 - Tiền mua sắt làm lò ấp trứng 19,5 triệu đồng; tiền đưa T(công nhân) đi mua sắt thêm làm lò ấp trứng: 1,6 triệu đồng và 15 triệu đồng tiền mua bảo hiểm vay.
Chị Nguyễn Thị Mỹ A được quyền đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản theo quy định pháp luật.
Về án phí: Buộc chị M phải chịu án phí là 28.262.397đ làm tròn 28.262.000đ được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 26.800.000đ theo biên lai thu tiền số 0004895 ngày 06/4/2023 mà chị MA nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ. Chị Mỹ A còn phải nộp thêm 1.462.000đ (Một triệu bốn trăm sáu mươi hai ngàn đồng).
Buộc anh Phạm Hữu K26 nộp 37.329.698đ làm tròn 37.329.600đ (Ba mươi bảy triệu, ba trăm hai chín ngàn, sáu trăm đồng).
Về chi phí tố tụng: Buộc chị MA nộp 600.000đ, chị Mỹ A đã nộp tam ứng trước nên không phải nộp thêm nữa.
Buộc anh K35 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) để hoàn trả lại chị MA vì chị M đã nộp tạm ứng trước.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các hên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của những người được thi hành án nếu người bị thi hành án chưa thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai có mặt nguyên đơn, báo đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung và nợ chung số 81/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 81/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về