TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1633/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN.
Trong ngày 20/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 777/2022/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022, về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 361/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 278/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31/8/2022, giữa:
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Yến N, sinh năm 1988;
Địa chỉ: phường T, thị xã L, tỉnh B. Địa chỉ liên lạc:, phường B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh;
Bị đơn: Ông Đặng Văn H, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện K, tỉnh S. Địa chỉ liên lạc: phường B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Bà N có đơn xin xét xử vắng mặt; ông H vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, bà Phạm Thị Yến N, trình bày: Bà và ông Đặng Văn H chung sống năm 2015, có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54/2015, Quyển số 01/2015 ngày 30/10/2015 do UBND phường T, thị xã L, tỉnh B cấp. Trong quá trình chung sống, do có nhiều bất đồng quan điểm, không hòa hợp, ông H thường xúc phạm bà nên mâu thuẩn phát sinh trầm trọng không hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên bà có yêu cầu được ly hôn với ông H.
Về con chung: Bà Phạm Thị Yến N khai nhận có 02 con chung là Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016 và Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020. Bà N có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và đồng ý giao cho ông Đặng Văn H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016. Đôi bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà N khai nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Bà N khai nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Đặng Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Nều lần đến Tòa để giải quyết việc ly hôn giữa ông với bà N. Tòa án đã tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu ông H có mặt để Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc ly hôn giữa ông với bà N nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông H.
Tại phiên tòa hôm nay:
* Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Yến N có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Bị đơn: Ông Đặng Văn H đã được tống đạt hợp lệ lần thứ hai để Tòa án tiến hành xét xử giải quyết việc ly hôn giữa ông với bà N nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
Căn cứ Điều 228, Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm xét xử, Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật như thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp, tư cách và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng; Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ; Thông báo và tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự đúng theo quy định. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án đúng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, tuân thủ đúng pháp luật; Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng pháp luật.
Về nội dung: Bà Phạm Thị Yến N và ông Đặng Văn H chung sống năm 2015, có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54/2015, Quyển số 01/2015 ngày 30/10/2015 do UBND phường T, thị xã L, tỉnh B cấp. Trong quá trình chung sống, đôi bên phát sinh mâu thuẫn nên bà N có yêu cầu ly hôn với ông H. Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N được ly hôn với ông H, giao cho bà N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và ông H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016. Ghi nhận sự tự nguyện của bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung và nợ chung, do các đương sự không có yêu cầu, đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Phạm Thị Yến N có đơn yêu cầu ly hôn với ông Đặng Văn H, bị đơn có địa chỉ tại phường B, quận Bình Tân. Đây là vụ án dân sự về hôn nhân và gia đình, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2]. Về nội dung: Bà Phạm Thị Yến N và ông Đặng Văn H tự nguyện chung sống năm 2015, có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54/2015, Quyển số 01/2015 ngày 30/10/2015 do UBND phường T, thị xã L, tỉnh B cấp, đây là hôn nhân hợp pháp có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do có mâu thuẫn nên bà N có đơn yêu cầu ly hôn với ông H.
[2.1]. Qua yêu cầu của bà Phạm Thị Yến N, Hội đồng xét xử xét thấy, hạnh phúc gia đình phải được xây dựng trên cơ sở tình thương yêu của cả vợ và chồng, đôi bên phải thật sự tin yêu, tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau nhưng hiện tại thì bà N đã không còn tha thiết chung sống với ông H nữa.
Ngày 23/6/2022, Tòa án nhân dân quận Bình Tân có văn bản số 777/TAQBT về việc tham khảo ý kiến về tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Phạm Thị Yến N và ông Đặng Văn H tại UBND phường B, quận Bình Tân, có kết quả trả lời: “...Đến thời điểm hiện tại Ủy ban nhân dân phường B chưa nhận được đơn yêu cầu hòa giải mâu thuẫn tranh chấp đối với trường hợp đương sự bà Phạm Thị Yến N và ông Đặng Văn H. Về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án: về nội dung này, Ủy ban nhân dân phường không rõ...”. Đồng thời cũng đã xác minh thông tin cư trú của ông Đặng Văn H tại Công an phường B, quận Bình Tân, được biết ông Đặng Văn H thực tế cư ngụ tạm trú tại phường B, quận Bình Tân.
Tòa án đã nhiều lần triệu tập hòa giải, tác động để đôi bên được hàn gắn, đoàn tụ nhưng bà N vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với ông H, còn ông H vắng mặt không có lý do. Từ đó cho thấy, đôi bên không còn quan tâm đến nhau nữa, tình cảm vợ chồng của bà N và ông H đã thật sự phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc tiếp tục chung sống là không còn ý nghĩa mà có thể tác động xấu đến sự phát triển của các con chung.
Từ những nhận định trên, nên yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Yến N đối với ông Đặng Văn H là có cơ sở chấp nhận.
[2.2]. Về con chung: Việc nuôi dưỡng, chăm sóc con là quyền đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ nhưng phải dựa trên cơ sở đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung. Bà N với ông H có 02 con chung là Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016 và Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020. Hiện nay, trẻ M đang do ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và trẻ C đang do bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, bà N có yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và đồng ý giao cho ông Đặng Văn H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016.
Xét thấy, hiện nay, con chung Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 đang được bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và con chung Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016 đang được ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà N có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung. Để đảm bảo sự ổn định cuộc sống hiện tại của các con chung, không làm ảnh hưởng đến tâm lý và để đảm bảo việc phát triển tốt về mọi mặt của con chung là cần thiết.
Từ những nhận định trên, đối với yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và đồng ý giao cho ông Đặng Văn H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016 của bà Phạm Thị Yến N là có cơ sở chấp nhận. Ghi nhận sự tự nguyện của bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
[2.3]. Về tài sản chung: Bà N khai nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xét.
[2.4]. Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Bà N khai nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xét.
[3]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân phát biểu: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Yến N được ly hôn với ông Đặng Văn H, giao cho bà N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và ông H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016. Ghi nhận sự tự nguyện của bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung và nợ chung, do các đương sự không có yêu cầu, đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân tại phiên Tòa là có căn cứ và cũng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu ly hôn được chấp nhận nên bà Phạm Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng án phí về ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 146;
khoản 4 Điều 147; Điều 203; Điều 220; Điều 227; Điều 228; Điều 235 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016 của UBTVQH.
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Yến N.
1.1. Về quan hệ vợ chồng: Bà Phạm Thị Yến N được ly hôn với ông Đặng Văn H.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54/2015, Quyển số 01/2015 ngày 30/10/2015 do UBND phường T, thị xã L, tỉnh B cấp không còn giá trị pháp luật kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
1.2. Về con chung: Giao cho bà N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đặng Ngọc Minh C, sinh ngày 26/6/2020 và ông H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Đặng Chung M, sinh ngày 26/9/2016. Ghi nhận sự tự nguyện của bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà Phạm Thị Yến N, ông Đặng Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, khi người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm: Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
1.3. Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Yến N khai nhận không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xét.
1.4. Về nợ chung và các nghĩa vụ dân sự khác: Bà Phạm Thị Yến N khai nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xét.
2. Về án phí: Bà Phạm Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng án phí về ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0034140 ngày 19/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Phạm Thị Yến N đã nộp đủ án phí.
Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương theo quy định của pháp luật.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn (bất đồng quan điểm) số 1633/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 1633/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về