Bản án về tranh chấp ly hôn án số 09/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC THỦY, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 65/2021/TLST- HNGĐ ngày 31/5/2021, về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2021/QĐST - HNGĐ ngày 27/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh LVS, sinh năm 1991, có mặt.

2. Bị đơn: Chị BTL, sinh năm 1992, vắng mặt.

Cùng có HKTT tại: thôn HP3, xã YB, huyện LTy, tỉnh Hòa Bình.

3. Người làm chứng:

- Bà TrTT, sinh năm 1967. Trú tại: thôn HP3, xã YB, huyện LTy, tỉnh Hòa Bình, có mặt - Bà BTI. Trú tại: Thôn Ch Ng, xã H Ph, huyện C Ph, tỉnh Hòa Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 31/5/2021 và bản tự khai cũng như tại phiên toà, nguyên đơn anh LVS yêu cầu Toà án giải quyết nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi kết hôn với chị BTL ngày 10/8/2011; Trước khi kết hôn hai bên tự do tìm hiều, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã YB, huyện LTy, tỉnh Hoà Bình. Sau khi kết hôn, tôi và cô L về chung sống với mẹ đẻ của tôi tại thôn HP3, xã YB. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng tôi sống hạnh phúc, cho đến năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách hai vợ chồng không hợp nhau, cũng khoảng năm 2017 thì cô L bỏ nhà đi làm không nói cho tôi biết là đi làm ở đâu, làm gì. Sau khi chị L đi khỏi nhà thì tôi có liên lạc với chị L nhưng không được, khoảng thời gian gần đây tôi có trao đổi điện thoại với nhau thì được biết chị L đang làm dưới Hà Nội và những dịp lễ tết chị L có về nhà mẹ đẻ ở thôn Ch Ng, xã H Ph, huyện C Ph để ở. Những lần liên lạc với nhau thì tôi cũng đã khuyên bảo chị L quay về để cùng nhau nuôi dạy con nhưng chị L vẫn không về. Khi tôi làm thủ tục ly hôn, tôi cũng đã liên lạc với chị L về để giải quyết, chị L đồng ý ly hôn nhưng lấy lý do không thể về được. Theo tôi thì chị L cố tình không muốn về, vì đã nhiều lần tôi gọi điện về để giải quyết ly hôn thì chị L hứa sẽ về nhưng sau đó không về và cũng không cung cấp địa chỉ nơi chị L làm việc.

Nay bản thân tôi thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chúng tôi ly thân đã lâu và tôi cũng không còn tình cảm gì với chị L nữa.

Tôi đề nghị Toà án nhân dân huyện Lạc Thuỷ giải quyết cho tôi được ly hôn với chị BTL để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Tôi và chị L có 01 con chung LBQĐ, sinh ngày 17/12/2010. Từ khi chị L bỏ đi cho đến nay, con chung là do tôi chăm sóc, nuôi dạy. Tôi có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng con và chưa yêu cầu chị L cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu pháp luật giải quyết.

Về công nợ chung: Không có nợ chung.

Đối với bị đơn chị BTL: Đã được Tòa án nhân dân huyện Lạc Thủy triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng chị BTL vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó Tòa án không ghi được lời khai và vụ án không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, Tòa án đã tiến hành niêm yết các thủ tục tố tụng cũng như quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng chị BTL vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

Người làm chứng là bà BTI là mẹ đẻ chị BTL trình bày:

Bà Ích không nhớ con gái mình kết hôn ngày tháng năm nào, chỉ biết con gái mình làm dâu tại huyện LTy, tỉnh Hòa Bình. Theo bà Ích thì trước khi kết hôn anh S và chị L có tìm hiểu một thời gian ngắn và tự nguyện đến với nhau, hai gia đình hoàn toàn nhất trí. Trong quá trình chung sống, do bà ở xa không đến thăm con thường xuyên, cũng không biết hai anh chị có mâu thuẫn gì không, tuy nhiên có một hôm anh S gọi điện cho bà và nói: “Con muốn bỏ L” rồi tắt máy. Bản thân làm mẹ bà rất sốc và lo lắng. Sau đó hai gia đình đã khuyên bảo anh chị nhưng chị L không muốn về nữa. Chị L thi thoảng có hay về nhà bà, chị L cũng liên lạc với bà qua điện thoại và tết năm 2020 chị L có về ăn tết với bà, hiện nay chị L đang bán quần áo ở dưới Hà Nội không cho bà địa chỉ nơi làm, nơi ở và chị L vẫn còn hộ khẩu ở LTy, Hòa Bình. Bà cho biết anh S và chị L có 01 con chung còn tài sản chung và nợ chung thì không có. Nay anh S làm đơn ly hôn chị L, do anh chị ly thân đã lâu và không còn tình cảm gì nữa, bản thân bà đã khuyên bảo để anh chị quay về nhưng không có kết quả nên bà cũng nhất trí việc ly hôn của anh S, chị L và không có ý kiến gì khác nữa.

Người làm chứng là bà TrTT là mẹ đẻ anh LVS trình bày:

Gia đình tôi có làm lễ cưới cho con trai là LVS và chị BTL, có đăng ký tại UBND xã YB, LTy, Hòa Bình vào năm 2011. Sau khi cưới hai cháu ở chung với tôi, gia đình cũng không có mâu thuẫn gì lớn. Chỉ chị L muốn đi làm ở Hà Nội nhưng con trai tôi không đồng ý, chị L vẫn cố tình đi làm nên hai vợ chồng có mâu thuẫn. Từ khoảng 2017 chị L đi và đến nay vẫn không thấy về, còn chị L có về nhà mẹ đẻ hay không thì tôi không biết. Chị L vẫn thỉnh thoảng gọi điện về nhưng chỉ hỏi thăm đến cháu Đ, tôi có hỏi cháu làm ở đâu thì chị L chỉ bảo là làm ở Hà Nội, không nói rõ địa chỉ làm việc, không nói là làm việc gì. Con trai tôi xin ly hôn với chị L, bản thân tôi cũng không mong muốn. Nhưng thời gian chị L bỏ đi làm đã lâu không về nên tôi cũng nhất trí việc ly hôn của con trai tôi, mong Tòa giải quyết sớm cho cháu ổn định gia đình.

Anh S và chị L không có tài sản chung, không có công nợ chung.

Anh S và chị L có một con chung là LBQĐ. Từ bé đến nay cháu vẫn ở với tôi và bố. Cháu hiện tại vẫn được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt. Tôi nhất trí cho bố con cháu ở chung nhà của tôi sau khi ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX) trong quá trình thụ lý giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).

Về chấp hành pháp luật của nguyên đơn và bị đơn:

Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chấp hành tốt các quy định tại các Điều 70, Điều 71 của BLTTDS.

Đối với bị đơn: chị BTL mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, như vậy chị BTL đã từ bỏ quyền của mình quy định tại các Điều 70, 72 của BLTTDS. Tòa án tống đạt và niêm yết giấy triệu tập hợp lệ theo đúng quy định tại Điều 177; Điều 179 BLTTDS; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 229 BLTTDS.

Nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh S và chị L mâu thuẫn đã lâu, không còn quan tâm đến nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được; đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (HN&GĐ), chấp nhận đơn xin ly hôn và giải quyết cho anh LVS được ly hôn với chị BTL.

- Về con chung: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 81, 82, 83 của Luật HN&GĐ giao con chung cháu LBQĐ, sinh ngày 17/12/2010 cho anh LVS trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh S chưa yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con nên không đề nghị HĐXX giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Anh S khai không có, không yêu cầu giải quyết; Trong quá trình giải quyết vụ án chị L cố tình không đến nên đề nghị HĐXX không giải quyết.

- Về án phí: Đề nghị HĐXX tuyên theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; HĐXX nhận định:

[1]. Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án:

Tranh chấp trong vụ án là tranh chấp về hôn nhân. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thôn HP3, xã YB, huyện LTy, Hòa Bình nên Tòa án nhân dân huyện Lạc Thủy thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2]. Về việc xét xử vắng mặt đương sự:

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị BTL đã được triệu tập hợp lệ để ghi lời khai, trình bày ý kiến, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không có mặt theo giấy triệu tập. Tòa án đã xác minh tại gia đình và nơi cư trú của chị BTL, tiến hành tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng chị BTL vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị BTL và người làm chứng bà BTI theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 229 của BLTTDS là phù hợp .

[3]. Về nội dung vụ án:

* Về quan hệ hôn nhân:

Anh LVS và chị BTL kết hôn năm 2011, có đăng ký tại UBND xã YB, huyện LTy, tỉnh Hòa Bình. Quan hệ hôn nhân giữa anh S và chị L là hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp. Trong thời gian chung sống, thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, nhưng từ năm 2017 mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu nảy S. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, chị L đi làm xa nhà và không về nhà nữa. Anh S và chị L không còn chăm sóc nhau nữa. Xét thấy cuộc sống chung giữa anh S, chị L không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh S có nguyện vọng xin được ly hôn để ổn định cuộc sống là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

* Về con chung:

Anh S và chị L có 01 con chung là LBQĐ, sinh ngày 17/12/2010; Từ khi chị L bỏ đi thì anh S là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; nay Ly hôn, anh S có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chưa yêu chị L phải cấp dưỡng; cháu LBQĐ cũng có nguyện vọng ở với anh S. Do vậy, nên giao cho anh LVS trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu LBQĐ cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác là phù hợp với quy định tại các Khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh S chưa yêu cầu nên HĐXX không đề cập.

* Về tài sản chung, công nợ chung:

Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[4]. Về án phí:

Anh LVS phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; khoản 5 Điều 177; Điều 179; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 229; Điều 271; Điều 273 BLTTDS;

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, xử cho anh LVS được ly hôn với chị BTL.

2. Về con chung: Giao con chung LBQĐ, sinh ngày 17/12/2010 cho anh LVS trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Chị BTL được quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh S chưa yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh LVS phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003298 ngày 31/5/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Thủy.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử theo trình tự phúc thẩm; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn án số 09/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về