Bản án về tranh chấp lối đi số 66/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 66/2023/DS-PT NGÀY 01/03/2023 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI

Trong các ngày 22/02 và ngày 01/3/2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử công khai phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 378/TLPT-DS ngày 01 tháng 11 năm 2022 về việc“Tranh chấp lối đi”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 86/2022/DS-ST, ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 478/2022/QĐ-PT, ngày 30 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Minh T, sinh năm 1975; Địa chỉ: Số nhà A, hẻm số X, Quốc lộ X, ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Bị đơn: Bà Trần Thị A, sinh năm 1947; Địa chỉ: Số nhà Y, hẻm số X, Quốc lộ X, ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Dương Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ: Số nhà X, Hẻm số X, Quốc lộ X, ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người kháng cáo: Anh Trần Minh T – là nguyên đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trần Minh T trình bày: Anh có phần đất diện tích 2.347,6m2, thửa 313, đất tọa lạc tại ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh do cha mẹ cho năm 2009, anh đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp ngày 08/4/2016, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh thì có hẻm hiện trạng 3,5m x dài 21m, phần đất của anh giáp ranh với đất của bà A. Trước đây vào ngày 01/11/2005 cha anh là ông Trần Văn K và bà A có thống nhất con đường 3,5m x dài 21m là đường đi chung có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, nhưng ngày 24/4/2020 bà A tự ý làm cổng rào chắn ngang lối đi, sự việc này Ủy ban nhân dân xã có giải quyết bà A không đồng ý mở lại lối đi. Nay anh yêu cầu bà A tháo dỡ cổng rào trả lối đi chung diện tích 3,5m x dài 21m tọa lạc tại ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành. Đối với yêu cầu phản tố của bà A, anh không đồng ý.

Tại cấp sơ thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, anh Nguyễn Văn Thiện và anh Nguyễn Phạm Hoài Ân trình bày: Thống nhất ý kiến trình bày của anh T không bổ sung gì thêm.

Bị đơn, bà Trần Thị A trình bày: Bà có phần đất diện tích 1.644 m2, thửa 212 tọa lạc tại ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh do cha của bà là cụ Trần Văn Th cho, bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp ngày 29/3/2001, hướng đông giáp đất của anh T. Lối đi do cha của bà là cụ Th tự mở để gia đình bà sử dụng, cha bà có cho gia đình bên anh T và một số người bà con dòng họ đi nhờ xuống ruộng, sau này nhà nước quy hoạch đất ruộng ở phía sau để làm Công ty xi măng Tây Ninh, nên không ai làm ruộng ở phía sau nữa, lối đi này chỉ có nhà bà và nhà anh T sử dụng. Năm 2005, bà và ông Trần Văn K là cha anh T có xảy ra tranh chấp lối đi này nên Ủy ban nhân dân xã Long Thành Nam có hòa giải, kết quả hòa giải hai bên thống nhất giao đoạn lối đi phía trong cho gia đình anh T sử dụng, đoạn phía ngoài giao cho gia đình bà sử dụng. Sau đó gia đình anh T tự rào đất lại, bên bà cũng rào lại lối đi này, vì lối đi hiện nay chỉ có gia đình bà sử dụng không có ai đi vào đây nữa. Ngày 24/4/2020 do anh T tự ý mở cửa ra vào đối diện với cửa ra vào của bà, bà không đồng ý nên bà rào bít lại lối đi này vì thực tế T có lối đi khác ra lộ 10 mét. Nay bà đồng ý mở lại lối đi phía ngoài làm lối đi chung, ngược lại bà yêu cầu anh T cũng trả lại hiện trạng lối đi phía trong, theo sơ đồ đã đo đạc.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, chị Dương Thị H trình bày: Chị thống nhất ý kiến của anh Trần Minh T là chồng chị đã trình bày, chị không bổ sung gì thêm.

Bản án sơ thẩm số 86/2022/DS-ST, ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, quyết định:

Căn cứ vào Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp lối đi” của anh Trần Minh T đối với bà Trần Thị A yêu cầu mở lối đi chung phía ngoài.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị A đối với anh Trần Minh T yêu cầu anh T trả lại lối đi chung phía trong.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định chi phí tố tụng khác, về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/9/2022, anh Trần Minh T có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà A tháo dỡ cổng rào chắn trả lại lối đi chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh T trình bày: anh chỉ ủy quyền cho anh Nguyễn Văn Thiện và anh Nguyễn Phạm Hoài Ân đại diện cho anh ở cấp sơ thẩm, tại cấp phúc thẩm anh trực tiếp tham gia phiên tòa; anh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu bà A tháo dỡ cổng rào chắn trả lại lối đi chung chiều ngang 3,5 m, chiều dài 21 m; chị H thống nhất với ý kiến của anh T, không bổ sung gì thêm.

Bà A không đồng ý với kháng cáo của anh T, bà đồng ý mở lại lối đi phía ngoài 3,5m x 21m, ngược lại thì anh T cũng phải mở lối đi phía trong làm lối đi chung của hai bên.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Trần Minh T. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên bản án số 86/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của Trần Minh T trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của anh Trần Minh T yêu cầu bà A mở lại lối đi chung ngang 3,5 m, chiều dài 21 m, thấy rằng:

Anh T có phần đất diện tích 2.347,6m2, thửa 313, đất tọa lạc ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh nguồn gốc do cha mẹ anh tặng cho vào năm 2009, anh T làm thủ tục kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp ngày 08/4/2016 thì hiện trạng con đường đã thay đổi, chỉ còn hiện trạng con đường phía ngoài.

Bà A có phần đất diện tích đất 1.644 m2, thửa 212 tọa lạc tại ấp L, xã L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh do cha là ông K cho, bà đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp ngày 29/3/2001, hướng đông giáp phần đất của anh T.

Theo Bản trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 29, 30/SĐ-TĐCL ngày 23/12/2020 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – Chi nhA Hòa Thành thể hiện lối đi phía ngoài có diện tích 66,95 m2, lối đi phía trong giáp đến đất bà A có diện tích 133,5 m2.

Anh T cho rằng lối đi (con hẽm hiện trạng) ngang 3,5 m , dài 21 m là lối đi chung của nhà anh và nhà bà A đã thống nhất trước đây. Bà A không thừa nhận cho rằng trước đây vào năm 2005 bà và ông K là cha của anh T có tranh chấp lối đi này, Ủy ban nhân dân xã hòa giải, hai bên thống nhất con đường này là đường đi chung của 2 nhà, giao đoạn lối đi phía trong cho gia đình ông K sử dụng, giao đoạn lối đi phía ngoài cho bà sử dụng, nay bà đồng ý mở lại lối đi phía ngoài như sơ đồ đo thực tế có diện tích 66,95 m2, ngược lại thì anh T cũng phải mở lối đi phía trong như thống nhất vào năm 2005.

Xét thấy, anh T cho rằng cho rằng lối đi (con hẽm hiện trạng) ngang 3,5 m , dài 21 m là lối đi chung của nhà anh và nhà bà A đã thống nhất trước đây là không có cơ sở bởi lẽ:

Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01947, ngày 14/12/1993, do cụ Trần Văn Th đứng tên và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02041, ngày 14/12/1993 do cụ Trần Văn K đứng tên thể hiện có con đường nằm giữa 2 phần đất của cụ Th và cụ K, con đường ngang 03m từ lộ 10m kéo thẳng vào trong giáp đất của cụ Th. Năm 2001, cụ Th sang tên cho bà A đứng tên đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 715609 cấp ngày 20/3/2001 do bà A đứng tên thì vẫn thể hiện có con đường ngang 03 m từ lộ 10 m kéo dài thẳng vào giáp đến đất của bà A; tại biên bản giải quyết tranh chấp đất của Ủy ban nhân dân xã Long Thành Nam ngày 01/11/2005 ông K và bà A thỏa thuận xác định con đường đi chung, bà A đồng ý kéo thẳng hàng rào của ông K ngang qua cổng 2 của bà A, ông K đồng ý và không thắc mắc khiếu nại về sau, con đường đi chung của 2 bên, không ai có quyền sử dụng mục đích riêng. Như vậy, đã thống nhất chừa lối đi phía ngoài hiện bà A sử dụng ra lộ 10 m, đoạn phía trong gia đình anh T xây hàng rào B40 giáp đất bà A, gia đình anh T có lối đi khác ra lộ 10m. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A là có căn cứ.

Anh T kháng cáo nhưng không có chứng cứ mới chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận.

Từ những phân tích trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 86/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

[3] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh là có căn cứ.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Tám kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 254 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Trần Minh T.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 86/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

2.1 Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp lối đi” của anh Trần Minh T đối với bà Trần Thị A, yêu cầu mở lối đi chung phía ngoài.

2.2 Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị A đối với anh Trần Minh T, yêu cầu anh T trả lại lối đi chung phía trong.

3. Về chi phí tố tụng: anh Trần Minh T phải chịu chi phí thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá và sao lục tài liệu số tiền 6.166.000 (sáu triệu một trăm sáu mươi sáu nghìn) đồng, anh T đã nộp và Tòa án đã chi xong.

4. Về án phí:

4.1 Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Minh T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp 500.000 đồng theo biên lai thu số 0008776 ngày 26/5/2020. Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hòa Thành hoàn trả lại cho anh T số tiền 200.000 đồng sau khi khấu trừ tiền án phí phải chịu.

Bà Trần Thị A thuộc trường hợp được miễn án phí nên không phải chịu tiền án phí.

4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Trần Minh T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng anh T đã nộp theo Biên lai thu số 0020952 ngày 30/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp lối đi số 66/2023/DS-PT

Số hiệu:66/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về