TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 11/2024/DS-PT NGÀY 17/01/2024 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI QUA
Ngày 17 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 325/TLPT-DS ngày 27 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp lối đi qua”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 80/2023/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Cao Thị Bé B, sinh năm 1970. Địa chỉ cư trú: tổ 8, ấp Mỹ Trung A, xã Mỹ Th, huyện Bình T, tỉnh Vĩnh L.
Bị đơn: 1/ Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1954. Địa chỉ cư trú: tổ 1, ấp Mỹ Thạnh C, xã Mỹ Th, huyện Bình T, tỉnh Vĩnh L.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị D: Bà Đặng Thị Hồng Ph, sinh năm 1977. Nơi cư trú: ấp Mỹ Thạnh C, xã Mỹ Th, huyện Bình T, tỉnh Vĩnh L (văn bản ủy quyền ngày 06/12/2022).
2/ Ông Nguyễn Phú C, sinh năm 1979. ĐKTT: số 252, khu vực Thạnh Thắng, phường Phú Th, quận Cái R, thành phố Cần Th. Nơi cư trú: ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ H, thị xã Bình M, tỉnh Vĩnh L.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Nguyễn Phú C: Bà Đoàn Thị Ánh Đ, sinh năm 1967. Địa chỉ: ấp Mỹ An, xã Mỹ H, thị xã Bình M, tỉnh Vĩnh L (văn bản ủy quyền ngày 23/10/2023) .
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị Hồng Ph.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Cao Thị Bé B trình bày: Bà được chia thừa kế tách 287-2 diện tích 274m2 đất trồng cây lâu năm; bà Nguyễn Thị D được chia thừa kế tách 287-1 diện tích 2.463,4m2 đất trồng cây lâu năm cùng tọa lạc xã Mỹ Th, huyện Bình T, tỉnh Vĩnh L. Trước đây từ phần đất thuộc tách 287-2 của bà có thể đi nhờ qua đất lân cận để ra đường công cộng, nhưng hiện nay Nhà nước đang thực hiện dự án mở đường đã thu hồi lối đi này nên bà phải đi qua phần đất tách 287-1 của bà D; đây là lối đi duy nhất. Bà đã thương lượng với bà D đề nghị mở lối đi nhưng không thỏa thuận được. Bà yêu cầu bà Nguyễn Thị D có trách nhiệm mở cho bà lối đi có chiều ngang 3m, dài 126,9m thuộc tách 287-1.
Bà được biết thửa 786 (đất tranh chấp yêu cầu lối đi) bà D chuyển nhượng cho bà Đặng Thị Hồng Ph chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Phú C nên bà yêu cầu T ông C mở cho bà lối đi theo kết quả khảo sát đo đạc thửa tách 786-1, diện tích 371,0 m2 do ông C đứng tên quyền sử dụng đất. Bà đồng ý hoàn lại giá trị đất cho ông C theo định giá.
- Tại bản khai ngày 24/5/2023 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà đồng ý mở lối đi có chiều ngang 0,5m, chiều dài 126,9m thuộc tách thửa 287-1 để bà Bé B đi ra đường công cộng, không yêu cầu bà Bé B hoàn giá trị.
- Tại biên bản hòa giải ngày 26/10/2023 bị đơn ông Nguyễn Phú C có đại diện hợp pháp là bà Đoàn Thị Ánh Đ trình bày: Ngày 06/10/2023 bà Đặng Thị Hồng Ph chuyển nhượng thửa 786 cho ông C. Hiện ông với bà Ph không tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng. Ông C đồng ý mở lối đi cho bà Bé B theo kết quả khảo sát đo đạc thửa tách 786-3, diện tích 127,5 m2 do ông C đứng tên quyền sử dụng đất cho đến khi bà Bé B có lối đi khác thuận tiện hơn, không yêu cầu bà Bé B đền bù.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Hồng Ph trình bày: Vào ngày 25/9/2023 bà Nguyễn Thị D chuyển nhượng cho bà thửa 786 sau đó bà lập thủ tục chuyển nhượng lại thửa 786 cho ông C. Bà không tranh chấp các hợp đồng chuyển nhượng nêu trên mà do ông C quyết định.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 80/2023/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Nguyễn Phú C dành cho bà Cao Thị Bé B lối đi trên phần đất thuộc tách thửa 786-3 có diện tích 127,5m2 ; Ghi nhận sự tự nguyện của ông C không yêu cầu bà Bé B phải đền bù. Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.
Ngày 14/11/2023, nguyên đơn bà Cao Thị Bé B kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bên đương sự giữ nguyên ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tuân thủ đúng pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Cao Thị Bé B còn trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét đơn kháng cáo của bà Cao Thị Bé B là không có căn cứ chấp nhận bởi vì: Thửa đất số 287-2 của bà Bé B có diện tích 274m2 là nhỏ hơn so với phần đất mà bà Yêu cầu mở lối đi tách thửa 786-1 diện tích 371m2 và là loại đất trồng cây lâu năm, bà Bé B không cư trú cũng không thường xuyên canh tác thửa 287-2 nên không cần thiết phải có lối đi kích thước chiều ngang tới 3m; trên đất lại có nhiều cây trồng nếu làm lối đi sẽ gây thiệt hại cho bị đơn nên lloi61 đi mà phía bị đơn dành cho nguyên đơn tại thửa786-3 diện tích 127,5 m2 là phù hợp Điều 254 của Bộ luật dân sự.
[2.2].Do không được chấp nhận kháng cáo nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tị Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội.
[2.3] Nội dung quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Đề nghị của kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm đồng nhất với quan điểm của Hội đồng xét xử nêu trên.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của bà Cao Thị Bé B.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 80/2023/DS-ST ngày 14/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
Áp dụng Điều 254 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166 của Luật đất đai năm 2013; Điều 148 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Cao Thị Bé B.
Buộc ông Nguyễn Phú C mở cho bà Cao Thị Bé B lối đi có diện tích 127,5m2 thuộc tách thửa 786-3 gồm các mốc 1,2,13,14,1 toạ lạc xã Mỹ Th, huyện Bình T, tỉnh Vĩnh L theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 20/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Bình Tân.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Phú C không yêu cầu bà Cao Thị Bé B phải đền bù cho ông là chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Cao Thị Bé B phải nộp 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đ(B trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0013902 ngày 10/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Tân.
4. Nội dung quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, được quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.
Bản án về tranh chấp lối đi qua số 11/2024/DS-PT
Số hiệu: | 11/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về