Bản án về tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề số 47/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 47/2023/DS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI QUA BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ

Trong ngày 03 tháng 8 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 19/2021/TLST- DS ngày 27 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXX-ST ngày 14 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 53/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Liên Thanh B; Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang, (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Trần Việt H: Địa chỉ: L, Đường C, khu dân cư M, Khóm A, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, (vắng mặt) Bị đơn: ông Liên Thanh C; Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Liên Thành C1 (vắng mặt)

2. Liên Thanh L (vắng mặt)

3. Liên Kim C2 (vắng mặt)

4. Lý Thị Thanh D (vắng mặt)

5. Liên Hải L1 (vắng mặt)

6. Liên Xu C3 (vắng mặt)

7. Nguyễn Thị H1

8. Liên Hải N1

9. Liên Hải V

10. Liên Kim Luyến

11. Hoàng Phước T (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của Liên Hải N, Liên Hải V, Liên Kim L2: Ông Liên Thanh C, bà Nguyễn Thị H1 (Theo giấy ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang chứng thực ngày 27/03/2023) (có mặt) Các đương sự có cùng địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai, lời trình bày của nguyên đơn là ông Liên Thanh B thì nội dung yêu cầu như sau:

Về nguồn gốc đất và quá trình quản lý, sử dụng nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc đất là của ông Liên Văn X khai hoang và được nhà nước cấp giấy chứng nhận tạm thời có tổng diện tích phần đất này khoảng 18.000 mét vuông. Đến năm 2013 và 2015 thì nguyên đơn kê khai và cấp giấy toàn bộ phần diện tích này. Năm 2016 thì giữa nguyên đơn và ông Liên Thanh C có tranh chấp và được Tòa án giải quyết công nhận cho ông Liên T1 Chánh phần đất có tổng diện tích là 7.160,2 mét vuông, cụ thể phần của ông Liên Thanh C gồm có thửa 527 với diện tích 1.401,3 mét vuông, thửa 1435 diện tích 2.706 mét vuông, thửa 1436 diện tích 2.556 mét vuông, thửa 528 diện tích 366,2 mét vuông thuộc tờ bản đồ số 11. Đất toạ lạc tại ấp T, thị trấn B, huyện P tỉnh Hậu Giang. Phần đất còn lại của nguyên đơn sau khi tranh chấp là diện tích còn lại của thửa 527, 528 và toàn bộ thửa số 1437. Do phần đất được Tòa án công nhận như trên nên phần đất thuộc thửa 527 diện tích 1.401,3 mét vuông do ông C sử dụng nằm ở vị trí mặt tiền giáp với lộ đá và kênh L, còn phần đất còn lại của nguyên đơn là các thửa 527, 528, 1437 nằm hoàn toàn ở phía sau giáp với thửa 527 nên không có lối đi ra vào bình thường như trước đây. Bởi do có tranh chấp nên hiện nay ông Liên T1 Chánh tiếp tục đứng ra ngăn cản không cho gia đình nguyên đơn sử dụng lối đi vào để canh tác 03 thửa đất của nguyên đơn được nữa.

Ngoài phần đất của nguyên đơn bị vây bọc thì còn có phần đất của Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 là ở phía sau phần đất của nguyên đơn. Các ông bà này là anh chị em ruột với nguyên đơn và ông Liên Thanh C. Trước khi phát sinh tranh chấp thì nguyên đơn ra vào phần đất của mình thông qua lối đi chung là đường nước ở giữa đất thuộc thửa 527 (có kích thước ngang khoảng 3 mét, dài khoảng 18 mét) một cách ổn định không bị ai ngăn cản, đường nước này cũng được các ông bà Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 sử dụng là lối đi chung. Phần đất của nguyên đơn ngoài đi ra lộ đá kênh L thì không còn lối đi ra nào khác. Sau khi tranh chấp vào năm 2016 thì phía ông C ngăn cản không cho đi. Việc ông C ngăn cản không cho nguyên đơn đi, nguyên đơn có trình báo chính quyền địa phương nhưng địa phương không có lập biên bản về việc ông C ngăn cản nguyên đơn đi qua phần đất này. Ông C chỉ ngăn cản bằng lời nói chứ không dùng cây cối hay vật liệu gì rào chắn lại lối đi. Đối với ông C 1, L, C2 thì ông C cho sử dụng lối đi này và không bị ngăn cản. Phần đất của nguyên đơn hiện do hộ gia đình cùng quản lý, sử dụng gồm có nguyên đơn, vợ là Lý Thị Thanh D, con Liên Hải L1, con Liên Su C4.

Nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho nguyên đơn được lối đi khác lối đi trước đây, phần lối đi này giáp ranh với ông Trần Văn N1 có kích thước ngang 4 mét, dài hơn 17 mét, diện tích là 68,5 mét vuông. Nguyên đơn đồng ý trả lại giá trị phần đất làm lối đi và bồi thường thiệt hại cây trồng trên đất nếu có cho ông Liên Thanh C.

Bị đơn ông Liên Thanh C trình bày:

Nguồn gốc đất của gia đình bị đơn là của ông Liên Văn X khai hoang và được nhà nước cấp giấy chứng nhận tạm thời có tổng diện tích phần đất này khoảng 18.000 mét vuông. Đến năm 2013 và 2015 thì ông B kê khai và cấp giấy toàn bộ phần diện tích này. Năm 2016 thì giữa bị đơn và ông Liên Thanh B có tranh chấp và được Tòa án giải quyết công nhận cho bị đơn phần đất có tổng diện tích là 7.160,2 mét vuông, cụ thể phần của bị đơn gồm có thửa 527 với diện tích 1.401,3 mét vuông, thửa 1435 diện tích 2.706 mét vuông, thửa 1436 diện tích 2.556 mét vuông, thửa 528 diện tích 366,2 mét vuông thuộc tờ bản đồ số 11. Đất toạ lạc tại ấp T, thị trấn B, huyện p tỉnh Hậu Giang. Phần đất còn lại của ông Liên Thanh B sau khi tranh chấp là diện tích còn lại của thửa 527, 528 và toàn bộ thửa số 1437. Phần đất của bị đơn được Tòa án công nhận như trên có thửa 527 diện tích 1.401,3 mét vuông nằm ở vị trí mặt tiền giáp với lộ đá và kênh L, còn phần đất còn lại của Liên Thanh B là các thửa 527, 528, 1437 nằm hoàn toàn ở phía sau giáp với thửa 527 của bị đơn. Phía trong đất của bị đơn còn có đất của Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2.

Từ trước đến nay ông Liên Thanh B và các anh chị em gồm Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 đi vào đất của họ bị vây bọc phía trong bằng đường đi chung là đường nước ở giữa đất thuộc thửa 527 (có kích thước ngang khoảng 3 mét, dài khoảng 18 mét) một cách ổn định. Từ trước đến nay bị đơn không hề ngăn cản gia đình ông B hoặc bất kỳ ai đi qua phần đất này.

Phần đất của ông B bị vây bọc bởi phần đất của bị đơn phía ngoài thì ngoài lối đi chung như bị đơn đã nêu trên thì gia đình ông B không còn lối đi nào khác. Phía sau và hai bên hong đất của ông B thì không có lối đi. Việc ông B nói bị đơn ngăn cản không cho đi là không chính xác, bởi lẽ hiện nay ông B vẫn đang canh tác đất bình thường và vẫn sử dụng lối đi chung như trước đến nay. Nay ông B yêu cầu mở lối đi ngang 04 mét ở một vị trí khác vì mục đích là để tạo lối đi thuận tiện nhằm bán đất cho người khác. Do vậy, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B, đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phần đất của bị đơn hiện nay gồm có vợ chồng bị đơn cùng sử dụng còn có 03 đứa con: Liên H, Liên Hải V, Liên Kiêm L và con dâu tên Hoàng Phước T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1 có ý kiến trình bày thống nhất với lời trình bày của bị đơn ông Liên Thanh C.

Tại phiên toà:

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1 không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, bị đơn tự nguyện để cho nguyên đơn và những anh em gồm Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 đi theo lối đi cũ từ trước đến nay và không yêu cầu những người này phải hoàn trả giá trị, bồi thường thiệt hại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Liên Hải N, Liên Hải V, Liên Kim L2 có người đại diện là ông Liên Thanh C và bà Nguyễn Thị H1 cùng có ý kiến thống nhất với ý kiến của bị đơn.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà:

Về thủ tục tố tụng: việc tuân theo pháp luật của tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật Về nội dung vụ án: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc mở lối đi khác qua bất động sản liền kề có kích thước ngang 4 mét, dài hơn 17 mét. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn về việc mở lối đi chung. Các vấn đề khác giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn mở lối đi chung. Căn cứ Điều 171 Luật đất đai, Điều 254 Bộ luật dân sự, khoản 2, 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về lối đi qua bất động sản liền kề.

[2] Về thẩm quyền xét xử: đối tượng tranh chấp là bất động sản có địa chỉ tại ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp.

[3] Về thủ tục tố tụng: người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xét xử vắng mặt đương sự theo thủ tục chung.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề của bị đơn:

[4.1] Nguồn gốc đất của nguyên đơn và bị đơn là của ông Liên Văn X khai hoang và được nhà nước cấp giấy chứng nhận tạm thời có tổng diện tích phần đất này khoảng 18.000 mét vuông. Đến năm 2013 và 2015 thì nguyên đơn kê khai và cấp giấy toàn bộ phần diện tích này. Năm 2016 thì giữa nguyên đơn và ông Liên Thanh C có tranh chấp và được Tòa án giải quyết công nhận cho ông Liên T1 Chánh phần đất có tổng diện tích là 7.160,2 mét vuông (theo Bản án số 31/2017/DS-ST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang), cụ thể phần của ông Liên Thanh C gồm có thửa 527 với diện tích 1.401,3 mét vuông, thửa 1435 diện tích 2.706 mét vuông, thửa 1436 diện tích 2.556 mét vuông, thửa 528 diện tích 366,2 mét vuông thuộc tờ bản đồ số 11. Đất toạ lạc tại ấp T, thị trấn B, huyện P tỉnh Hậu Giang. Phần đất còn lại của nguyên đơn sau khi tranh chấp là diện tích còn lại của thửa 527, 528 và toàn bộ thửa số 1437. Do phần đất được Tòa án công nhận như trên nên phần đất thuộc thửa 527 diện tích 1.401,3 mét vuông do ông C sử dụng nằm ở vị trí mặt tiền giáp với lộ đá và kênh L, còn phần đất còn lại của nguyên đơn là các thửa 527, 528, 1437 nằm hoàn toàn ở phía sau giáp với thửa 527. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Liên Thanh C thừa nhận phần đất của nguyên đơn bị vây bọc nên chỉ có thể đi qua phần đất của bị đơn, ngoài ra nguyên đơn không con lối đi nào khác. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật dân sự: “Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ”. Nguyên đơn cần lối đi qua bất động sản liền kề của bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4.2] Xét lối đi mà nguyên đơn yêu cầu là phần đất có kích thước ngang 04 mét, chiều dài cách cạnh lần lượt là 17.58 mét và 17.45 mét, được ký hiệu số 01 + 03 (theo mảnh trích đo địa chính số TĐ263A/2022 do Công ty TNHH T2 lập ngày 07/6/2022), tổng diện tích mà nguyên đơn yêu cầu là 68,5 mét vuông. Hội đồng xét xử xét thấy, từ trước khi nguyên đơn và bị đơn phát sinh tranh chấp thì phần đất của nguyên đơn, cũng như các anh em trong gia đình gồm: Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2, cùng sử dụng lối đi chung là phần đất có kích thước ngang 02 mét, chiều dài cách cạnh lần lượt là 30,8 mét và 30.29 mét, được ký hiệu số 02 (theo mảnh trích đo địa chính số TĐ263A/2022 do Công ty TNHH T2 lập ngày 07/6/2022), tổng diện tích sử dụng lối đi này là 59,8 mét vuông. Quá trình sử dụng lối đi chung bị đơn trình bày không ngăn cản nguyên đơn và bất kỳ ai, về phía nguyên đơn không xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh là bị đơn có ngăn cản. Nay nguyên đơn không đồng ý sử dụng lối đi cũ mà yêu cầu mở lối đi mới để thuận tiện hơn là không phù hợp với quá trình sử dụng lối đi chung từ trước đến nay. Việc nguyên đơn yêu cầu mở lối đi mới có diện tích lớn hơn và ở vị trí mới sẽ gây thêm thiệt hại phần đất của bị đơn. Bởi lẽ, nếu chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn thì phía bị đơn cùng lúc phải mở hai lối đi trên phần đất của mình, một lối đi dành cho nguyên đơn và lối đi cũ dành cho các anh, chị khác. Đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 254 Bộ luật dân sự: Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi. Do vậy, lối đi mà nguyên đơn yêu cầu là không hợp lý và gây thiệt hại lớn hơn cho bị đơn so với lối đi cũ. Do vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc mở lối đi mới.

[4.3] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn tự nguyện để cho nguyên đơn, cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 sử dụng lối đi cũ tại vị trí số 02 (theo mảnh trích đo địa chính số TĐ263A/2022 do Công ty TNHH T2 lập ngày 07/6/2022) và không buộc bị đơn, cũng như người liên quan hoàn trả giá trị. Xét đây là sự tự nguyện của bị đơn, phù hợp với quá trình sử dụng bất động sản của các đương sự từ trước đến nay. Do vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc mở lối đi chung tại phần đất có tổng diện tích là 59,8 mét vuông.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định.

[6] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 227, Điều 228, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 254 Bộ luật dân sự; Điều 95, Điều 171 Luật đất đai; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Liên Thanh B về việc yêu cầu bị đơn ông Liên Thanh C mở lối đi có kích thước ngang 04 mét, chiều dài cách cạnh lần lượt là 17.58 mét và 17.45 mét, được ký hiệu số 01 +03 (theo mảnh trích đo địa chính số TĐ263A/2022 do Công ty TNHH T2 lập ngày 07/6/2022), tổng diện tích là 68,5 mét vuông, toạ lạc trên thửa đất số 525, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Liên Thanh c cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1, Liên Hải N, Liên Hải V, Liên Kim L2 về việc sử dụng phần đất thuộc quyền sở hữu của mình để làm lối đi chung cho ông Liên Thanh B, Liên Thành C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2. Lối đi chung có kích thước ngang 02 mét, chiều dài các cạnh lần lượt là 30,8 mét và 30.29 mét, được ký hiệu số 02 (theo mảnh trích đo địa chính số TĐ263A/2022 do Công ty TNHH T2 lập ngày 07/6/2022), tổng diện tích là 59,8 mét vuông, toạ lạc trên thửa đất số 525, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Liên Thanh C cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1, Liên Hải N, Liên Hải V, Liên Kim L2 về việc cho ông Liên Thanh B, Liên Thanh C1, Liên Thanh L, Liên Kim C2 được sử dụng lối đi chung mà không hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về tài sản.

Các đương sự thực hiện đăng ký lối đi chung (quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Nguyên đơn ông Liên Thanh B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0008579 ngày 26 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn ông Liên Thanh B không phải nộp thêm.

4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn ông Liên Thanh B phải chịu 5.200.000 đồng. Được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng đã nộp tạm ứng trước đó. Nguyên đơn ông Liên Thanh B không phải nộp thêm.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề số 47/2023/DS-ST

Số hiệu:47/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về