Bản án về tranh chấp lối đi chung số 66/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 66/2024/DS-PT NGÀY 28/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI CHUNG

Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 620/2023/TLPT-DS ngày 30 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp lối đi chung”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 1547/2023/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 403/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Xuân V, sinh năm 1984. (Có mặt) Địa chỉ: 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Đào Quang D – Đoàn Luật sư Thành phố H. (Có mặt) Địa chỉ: A Đường A, Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoài V1, sinh năm 1964. (Có mặt) Địa chỉ: 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thanh T, sinh năm 1970. (Vắng mặt) Địa chỉ: D (15 đường N), khu dân cư S, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày 12/5/2017).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Tôn Nữ Thùy T1, sinh năm 1984. (Có mặt)

2. Bà Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1962. (Vắng mặt)

3. Trẻ Lê Huy P, sinh năm 2012. (Vắng mặt)

4. Trẻ Lê Ngọc Thiên K, sinh năm 2016. (Vắng mặt) Người đại diện theo pháp luật của trẻ P, trẻ K: Ông Lê Xuân V và bà Tôn Nữ Thùy T1. (Có mặt) Cùng địa chỉ: 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Bà Trần Thị Thanh T2, sinh năm 1964. (Vắng mặt)

6. Bà Nguyễn Thị Hoài A1, sinh năm 1990. (Vắng mặt)

7. Bà Nguyễn Thị Hoài D1, sinh năm 2000. (Vắng mặt)

8. Ông Nguyễn Hoài L, sinh năm 2002. (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Ủy ban nhân dân Thành phố H. (Vắng mặt) Địa chỉ: H L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Bảo T3 - Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường quận P (văn bản ủy quyền ngày 17/6/2021). (Vắng mặt)

10. Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) Địa chỉ: A N, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Bảo T3 - Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường quận P (văn bản ủy quyền ngày 04/6/2021). (Vắng mặt) - Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Hoài V1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn trình bày:

Trước đây, hai căn nhà số B của ông Nguyễn Hoài V1 và căn nhà số B của gia đình ông cùng sử dụng chung phần đất là hẻm B trước nhà làm lối đi chung dẫn ra đường T. Năm 2000, do tình hình trộm cắp thường xuyên xảy ra tại địa phương nên bà Trần Thị M (chủ cũ của căn nhà 235/24) đề nghị gia đình ông xây cổng chung trước nhà để bảo vệ tài sản và sử dụng cho đến hiện nay. Gần đây, gia đình ông thấy căn nhà của gia đình mình đã quá cũ nên đã xin giấy phép xây dựng và được Ủy ban nhân dân quận P chấp thuận. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, ông Nguyễn Hoài V1 đã nhiều lần khiếu nại, ngăn cản gia đình ông, ông V1 có xuất trình Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND Thành phố cấp cho bà Trần Thị M là không phù hợp với thực tế, cụ thể phần sân trước của hai căn nhà 235/24 và 235/26 Thích Quảng Đ có diện tích khoảng 20m² thuộc lối đi chung nhưng không biết làm cách nào thay đổi được hiện trạng từ sử dụng chung thành sử dụng riêng làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình ông và bà con trong ngõ. Vì vậy, ông khởi kiện:

+ Yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Hoài V1 trả lại phần đất chung giữa hai căn nhà 235/24 và 2 T, Phường D, quận P để đảm bảo quyền tự do đi lại cho người dân trong hẻm cũng như của gia đình ông.

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 ngày 13/5/2000 của Ủy ban nhân dân thành phố H. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:

Ông Nguyễn Hoài V1 là chủ sở hữu hợp pháp căn nhà số B T, Phường D, quận P theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 do UBND Thành phố H cấp ngày 13/5/2000. Nguồn gốc sở hữu là do ông V1 nhận chuyển nhượng từ bà Trần Thị M vào năm 2001. Trên thực địa suốt 16 năm qua, sân trước nhà ông V1 (khoảng 20m²) luôn tồn tại hàng rào kiên cố bao bọc thể hiện quyền sở hữu hợp pháp của ông V1. Năm 2015, ông V (chủ căn nhà số B T, Phường D, quận P) được cấp phép xây dựng với quy mô 4 tầng và có cửa đi chính, cửa sổ mở ra hướng sân riêng của ông V1. Ông V1 không đồng ý vì đây là đất của ông V1. Ông V không được đi ngang qua đất của ông V1. Vì vậy, tháng 8/2015, ông V1 làm đơn khiếu nại gửi Ủy ban nhân dân quận P và sau đó Phòng Quản lý đô thị quận P thu hồi để điều chỉnh giấy phép xây dựng và giữ nguyên hiện trạng trước đây. Việc Ủy ban nhân dân quận P cấp Giấy chứng nhận cho bà Nguyễn Thị Kim A (sau đó bà Kim A tặng cho ông Lê Xuân V) công nhận sân riêng (đất) của ông V1 làm hẻm (lối đi chung) cho căn nhà 235/26 là trái quy định pháp luật, xâm phạm quyền sử dụng đất của ông V1. Vì vậy, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Lê Xuân V và có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 593/2009/UB- GCN do Ủy ban nhân dân quận P cấp ngày 17/3/2009.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Tôn Nữ Thùy T1 trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của ông V. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2. Bà Nguyễn Thị Kim A trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của ông V. Do bận công việc nên bà đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng cho đến khi kết thúc vụ án.

3. Bà Trần Thị Thanh T2, bà Nguyễn Thị Hoài A1, bà Nguyễn Thị Hoài D1, ông Nguyễn Hoài L trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của ông V1 và xin được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng cho đến khi kết thúc vụ án.

4. Tại văn bản số 712/UBND-TNMT ngày 13/9/2018, Ủy ban nhân dân quận P trình bày: Xác định giấy chủ quyền của hai nhà số B và 235/26 Thích Quảng Đ có sự chồng lấn đối với phần diện tích 20,1m phía trước hai nhà và đề nghị Tòa án giải quyết theo hướng sử dụng làm sân chung cho hai nhà.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1547/2023/DSST ngày 30 tháng 8 năm 2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 34, khoản 1 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 1, 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án năm 2009.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

2. Xác định diện tích sân 20,1m² tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 13/5/2000 cho ông Nguyễn Văn L1 và bà Trần Thị M, cập nhật chủ sở hữu cho ông Nguyễn Hoài V1 ngày 07/02/2001 là diện tích hẻm công cộng B T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Ủy ban nhân dân Thành phố H có nghĩa vụ thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 13/5/2000 cho ông Nguyễn Văn L1 và bà Trần Thị M, cập nhật chủ sở hữu cho ông Nguyễn Hoài V1 ngày 07/02/2001 để điều chỉnh, xác định phần diện tích 20,1m² hiện đang thể hiện là sân của nhà 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh là hẻm xi măng ra đường T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Buộc ông Nguyễn Hoài V1 tháo dỡ công trình xây dựng là cổng rào chắn hẻm B T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Trả lại diện tích 20,1m² là diện tích hẻm công cộng.

5. Ông Nguyễn Hoài V1 được quyền khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị M và các đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn L1 hoàn trả lại số tiền đã mua phần diện tích khuôn viên 20,1m² theo hợp đồng mua bán nhà ở số 2232/HĐ-MBN lập tại Phòng C, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 09/01/2001 bằng một vụ án khác.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 12/9/2023, bị đơn ông Nguyễn Hoài V1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu sửa bản án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của ông với lý do: ông là người mua đất từ bà Trần Thị M và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, trước khi cấp sổ thì cơ quan chức năng đã tiến hành các hoạt động đo đạc, xác minh thực địa theo quy định. Do đó việc công nhận phần đất tranh chấp là lối đi chung là không phù hợp, gây thiệt hại cho quyền lợi của ông. Ông không yêu cầu hủy Giấy chứng nhận của nguyên đơn và đồng ý mở cửa cho gia đình nguyên đơn được sử dụng một phần diện tích tranh chấp làm lối đi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, cho rằng án sơ thẩm đã xét xử bất công đối với ông, không xem xét các khiếu nại của ông về việc ông đã mua nhà đất đúng quy định, đúng thủ tục và đều thông qua cơ quan chức năng để được cập nhật sang tên; nguồn gốc nhà đất được hợp thức hóa từ thời chủ cũ là bà M và thời gian bà M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là trước bên bị đơn. Như vậy ông không có lỗi gì nhưng bị buộc phải chịu hệ lụy, làm giảm diện tích đất là không hợp tình hợp lý. Ông phản biện ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm về việc số nhà của nguyên đơn và số nhà của ông đều bắt đầu là số 235 nên khoảng đất tranh chấp là lối đi công cộng của hẻm B là không đúng, vì số nhà và chủ quyền là hai vấn đề không liên quan nhau, trong trường hợp này vẫn có thể thỏa thuận cho đi nhờ. Đối với nhận định của án sơ thẩm về phần đất tranh chấp là hẻm cụt mang cấp cho bà M là sai nhưng trong thực tế vẫn có trường hợp Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích lấn chiếm, trong khi trường hợp của bà M đã có quá trình sử dụng trước đó 24 năm không bị ai xử lý thì theo quy định của Luật Đất đai 2013 vẫn được công nhận quyền sử dụng đất do đã có thời gian sử dụng ổn định và lâu dài. Trích lục hồ sơ xin cấp GCNQSD đất của bà M thể hiện nhà đất đã được mua từ năm 1966, đến năm 2000 mới được cấp sổ với diện tích 80m² nhưng đăng ký chỉ 75m² – bao gồm cả phần đất tranh chấp, khi đó không thể hiện phần nhà của nguyên đơn nên phải chấp nhận theo vấn đề lịch sử để lại. Sau này phía mẹ nguyên đơn là bà Kim A cũng có xác nhận là phần đất tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của bà M. Án sơ thẩm đã suy diễn cho là thỏa thuận này không có giá trị, buộc bị đơn phải chịu điều chỉnh diện tích đất trong sổ và tìm bà M khởi kiện trong khi ông không có lỗi là không có căn cứ.

Nguyên đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm do đã xét xử đúng, yêu cầu kháng cáo không có cơ sở nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo và các ý kiến phía bị đơn trình bày.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tôn Nữ Thùy T1 thống nhất theo ý kiến của nguyên đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày đồng tình với nội dung của bản án sơ thẩm vì phần đất tranh chấp đã có ý kiến của UBND quận P xác định là phần lối đi chung của hẻm 235 nên việc cấp GCNQSD đất cho ông V1 bao gồm cả phần đất này là không đúng quy định. Việc lập hàng rào là do để bảo vệ tài sản không bị trộm cắp. Nguyên đơn không biết việc bà M đã sử dụng bản thỏa thuận với bà Kim A để làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất. Năm 2015, khi ông V xây dựng nhà thì bị ông V1 ngăn cản mới đưa vụ việc ra Ủy ban nhân dân phường H2. Quá trình giải quyết đã phát hiện sai sót nên ông V được hướng dẫn khởi kiện tại Tòa án để giải quyết theo quy định. Do vậy, án sơ thẩm đã xét xử đúng quy định và đúng thực tế như các tài liệu chứng cứ đã thu thập. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều đã tuân thủ quy định về tố tụng. Kháng cáo của bị đơn là hợp lệ.

Về yêu cầu kháng cáo: Xét án sơ thẩm đã tuyên xử có căn cứ theo các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập hợp pháp. Người kháng cáo không xuất trình thêm chứng cứ mới nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức:

Bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên đơn kháng cáo là hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuân thủ các quy định về thủ tục tố tụng. Án sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp lối đi chung” và thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhưng một số đương sự vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này tại phiên tòa phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Nguyên đơn khởi kiện với 02 nội dung: yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Hoài V1 trả lại phần đất chung giữa hai căn nhà 235/24 và 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo quyền tự do đi lại của người dân trong hẻm cũng như gia đình ông V; yêu cầu điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 ngày 13/5/2000 của Ủy ban nhân dân Thành phố H. Xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập thể hiện:

Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thì căn nhà của nguyên đơn và bị đơn đều sử dụng lối đi chính là hẻm B ra đường T, diện tích đất tranh chấp là khoảng không gian cuối hẻm 235 ngay trước cửa hai căn nhà.

Theo giấy thỏa thuận về việc xác định ranh giới nhà, đất 235/26 do bà Hoàng Thị H lập ngày 15/7/1999 thì xác định lối đi chính là hướng ra hẻm B và xác định phía trước là hẻm; giấy thỏa thuận về việc xác định ranh giới nhà, đất địa chỉ 235/24 do bà Trần Thị M lập ngày 16/7/1999 không xác định một cạnh của sân là của tường nhà 235/26, có cửa chính ra hẻm.

Tại Biên bản về việc lập bản vẽ hiện trạng ngày 01/9/2000 bà Nguyễn Thị Kim A với tư cách là chủ hộ nhà số B xác nhận phía sân trước trống là sân riêng của bà Trần Thị M và ngày 07/9/1999, giữa bà Nguyễn Thị Kim A với bà Trần Thị M có Giấy thỏa thuận cho rằng diện tích sân phía trước nhà 235/24 sẽ giữ nguyên hiện trạng, không xây cất ngăn lối đi của nhà 235/26.

Tại Văn bản số 712/UBND-TNMT ngày 13/9/2018 của Ủy ban nhân dân quận P xác định: “Tại biên bản về việc lập bản vẽ hiện trạng nhà số B T do Phòng Quản lý đô thị quận P lập ngày 01/9/1999 có nội dung xác nhận của bà Kim A phần sân trống phía trước 02 nhà là sân riêng của hộ bà Trần Thị M; có ý kiến của Ủy ban nhân dân Phường D2 (ngày 07/9/1999) xác nhận chữ ký của bà Kim A và đề nghị không cấp phép xây dựng trên phần sân này để đảm bảo thông thoáng lối đi của hai nhà; việc cấp chủ quyền có sự chồng lấn đối với diện tích 20,1m² phía trước hai nhà và đề nghị Tòa án xem xét xác định phần diện tích trên là diện tích chung của hai nhà. Trong Bản vẽ hiện trạng nhà số B T do Đoàn Đo đạc bản đồ lập ngày 08/7/1999 được Phòng Quản lý đô thị quận P duyệt ngày 27/12/2000 có ghi phần sân trống không cấp phép xây dựng và có thể hiện cửa đi của nhà 235/26 Thích Quảng Đ mở ra sân… phần diện tích chồng lấn 20,1m² đất phía trước hai nhà 235/24 và 235/26 Thích Quảng Đ đề nghị giải quyết theo hướng sử dụng làm sân chung cho hai nhà”.

Quá trình sử dụng nhà, đất trên, chủ sử dụng tuy có chuyển quyền cho nhiều cá nhân nhưng đều là chuyển quyền sử dụng trọn thửa.

Xét, thỏa thuận của bà Kim A và bà Trần Thị M là không có giá trị pháp lý do ở thời điểm thỏa thuận người chủ sở hữu hợp pháp là ông Nguyễn Sơn H1 và bà Hoàng Thị H theo Giấy phép mua bán chuyển dịch nhà cửa số 203/GP-UB ngày 07/5/1987. Thực tế phần diện tích tranh chấp là lối đi chính của hai nhà 235/24 và 235/26. Việc UBND Thành phố H đã cấp Giấy chứng nhận có sự chồng lấn là sai sót nhưng các chủ sở hữu trước đó không có tranh chấp, công trình xây dựng trên diện tích hẻm chung đã tồn tại từ lâu. Tuy nhiên việc để tồn tại công trình xây dựng chắn lối đi chung là không phù hợp lợi ích chung của cộng đồng và cần thiết phải trả lại diện tích hẻm để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu xác định phần diện tích hẻm xi măng của Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 593/2009/UB-GCN do Ủy ban nhân dân quận P cấp ngày 17/3/2009 là phần sân riêng của nhà 235/24; bị đơn chấp nhận tiếp tục cho sử dụng nhờ lối đi, không được xây dựng khác với hiện trạng hiện nay, Hội đồng xét xử xét thấy: như phân tích trên, diện tích tranh chấp được xác định là hẻm cụt công cộng, là lối đi chính của hai nhà 235/24 và 235/26 Thích Quảng Đ, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của Ủy ban nhân dân Thành phố H là chưa đúng quy định nên yêu cầu phản tố của bị đơn không có cơ sở để chấp nhận.

Việc điều chỉnh về diện tích đất giảm bớt đối với nhà 235/24 so với quá trình bị đơn nhận chuyển nhượng từ bà Trần Thị M, ông Nguyễn Văn L1 có làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn. Tuy nhiên bị đơn không có yêu cầu nào đối với bà M và những người thừa kế của ông L1 trong cùng vụ kiện này nên có quyền khởi kiện thành vụ kiện dân sự khác về hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất.

Án sơ thẩm đã tuyên xử có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo:

Bị đơn kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 593/2009/UB-GCN do Ủy ban nhân dân quận P cấp ngày 17/3/2009. Như phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ kiện có căn cứ, đúng pháp luật, các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ, hợp pháp. Do các ý kiến trình bày của bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm chỉ phản biện lại nhận định của bản án sơ thẩm và ý kiến của Kiểm sát viên mà không đưa ra được chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Hội đồng xét xử thống nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 2 Điều 26; khoản 4 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 1 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Xác định diện tích sân 20,1m² tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 13/5/2000 cho ông Nguyễn Văn L1 và bà Trần Thị M, cập nhật chủ sở hữu cho ông Nguyễn Hoài V1 ngày 07/02/2001 là diện tích hẻm công cộng B T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Kiến nghị Ủy ban nhân dân Thành phố H thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 4496/2000 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 13/5/2000 cho ông Nguyễn Văn L1 và bà Trần Thị M, cập nhật chủ sở hữu cho ông Nguyễn Hoài V1 ngày 07/02/2001 để điều chỉnh, xác định phần diện tích 20,1m² hiện đang thể hiện là sân của nhà 2 T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh là hẻm xi măng ra đường T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc ông Nguyễn Hoài V1 tháo dỡ công trình xây dựng là cổng rào chắn hẻm B T, Phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Trả lại diện tích 20,1m² là diện tích hẻm công cộng.

Ông Nguyễn Hoài V1 được quyền khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị M và các đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn L1 hoàn trả lại số tiền đã mua phần diện tích khuôn viên 20,1m² theo hợp đồng mua bán nhà ở số 2232/HĐ-MBN lập tại Phòng C, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 09/01/2001 bằng một vụ án khác.

Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hoài V1 phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002365 ngày 22 tháng 9 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Đương sự đã thực hiện xong.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp lối đi chung số 66/2024/DS-PT

Số hiệu:66/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về