TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 767/2022/LĐ-PT NGÀY 14/12/2022 VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LÀM, TIỀN LƯƠNG
Ngày 21 tháng 6 năm 2022, ngày 29 tháng 8 năm 2021, ngày 14 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 10/TLPT-LĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022, về việc “Tranh chấp liên quan đến việc làm và tiền lương”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 55/2021/LĐ-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân quận 01, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5999/2022/TLPT-LĐ ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữa:
Nguyên đơn: Ông Bùi Đặng Tú K, sinh năm: 1981 (có mặt);
Địa chỉ: Số D Bis J N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tạm trú: A V, phường V, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ngân hàng N;
Địa chỉ: Số B L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: bà Hồ Lê V (có mặt) Địa chỉ: 1 T, phường E quận E, TP ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Đức VI, sinh năm: 1990 - Luật sư Công ty L và T thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (ông V1 có mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn Ngân hàng N
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 24 tháng 6 năm 2020, quá trình tố tụng nguyên đơn trình bày:
Ngày 01 tháng 02 năm 2009, nguyên đơn và Ngân hàng N (viết tắt là A) ký hợp đồng lao động HĐ.A200 Số.02/09, loại hợp đồng không xác định thời hạn, vị trí công việc là nhân viên, công việc phải làm theo sự phân công của Trưởng phòng tổng hợp, lương khởi điểm bậc 1 ngạch chuyên viên, kinh tế viên hệ số 2,34 theo Nghị định số: 205/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định về hệ thống thang lương, bậc lương và chế độ phụ cấp lương trong các công ty nhà nước. Đến ngày 20 tháng 5 năm 2015, nguyên đơn và Ngân hàng N - Chi nhánh A1 ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, thời hạn hợp đồng kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2015; chức danh chuyên môn là kinh tế viên, chức vụ (nếu có) là quyền giám đốc, phó giám đốc, công việc phải làm kế hoạch - kinh doanh; lương căn bản V1 bậc 3: 2.96, lương kinh doanh V2 bậc 2: 7,20 (ngạch chuyên viên); chế độ nâng lương theo quy định của Chính phủ và của bị đơn; đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật.
Ngày 21 tháng 9 năm 2017, A có quyết định số 1584/QĐ-NHNo-TCTL điều động, bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Giám đốc A - Chi nhánh N1, xếp lương cơ bản bậc 1/3, hệ số 2,91 và quyết định số 1585/QĐ-NHNo-TCTL xếp thù lao theo hiệu quả bậc 1/3, hệ số 14, 10 được trực tiếp giao nhiệm vụ chuyên trách công tác phát triển kinh doanh và xử lý nợ xấu; thời hạn giữ chức vụ là 05 năm kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2017.
Qua một số thông tin không chính thức, nguyên đơn biết giám đốc A - Chi nhánh 5 (Ngân hàng N - Chi nhánh Q) có quyết định số 555/QĐ-NHNo5- TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing thuộc A - Chi nhánh 5, xếp lương cơ bản bậc 3/6, hệ số 1,74, phụ cấp chức vụ 0,25 và quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH xếp thù lao theo hiệu quả bậc 3/3, hệ số 16,10; thời hạn giữ chức vụ là 05 năm kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2020. Việc điều động và bổ nhiệm nguyên đơn đột ngột không báo trước theo trình tự, thủ tục luật định. Ngày 29 tháng 4 năm 2020, A - Chi nhánh 5 thông báo, ngày 30 tháng 4 năm 2020, ngày 01 tháng 5 năm 2020 là ngày nghỉ lễ, ngày 02 và ngày 03 tháng 5 năm 2020 là ngày thứ bảy, chủ nhật thì đến ngày 04 tháng 5 năm 2020 là ngày thi hành quyết định.
Thời điểm A - Chi nhánh 5 có quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH, quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH điều động và bổ nhiệm nguyên đơn thì nguyên đơn còn chịu sự điều chỉnh bởi quyết định số 1584/QĐ-NHNo-TCTL, quyết định số 1585/QĐ-NHNo-TCTL ngày 21 tháng 9 năm 2017 của A. Ngày 04 tháng 5 năm 2020, nguyên đơn khiếu nại yêu cầu A - Chi nhánh 5 thu hồi quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH. Ngày 05 tháng 6 năm 2020, nguyên đơn nhận được quyết định giải quyết khiếu nại A - Chi nhánh 5 không chấp nhận khiếu nại của nguyên đơn. Ngày 10 tháng 6 năm 2020, nguyên đơn tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Phòng L1, đến ngày 22 tháng 6 năm 2020, Phòng L1 lập biên bản hòa giải không thành.
Quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của A - Chi nhánh 5 điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M1 - Chi nhánh 5 là vi phạm pháp luật bởi thời điểm ban hành quyết định Giám đốc A - Chi nhánh 5 chưa đủ thẩm quyền do chưa được bị đơn ủy quyền, không hợp pháp, lạm quyền, trái quyết định số 1584/QĐ-NHNo-TCTL và quyết định số 1585/QĐ-NHNo-TCTL ngày 21 tháng 9 năm 2017 của A là cơ quan quản lý cấp trên vi phạm quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trình tự, thủ tục ban hành quyết định không thông báo cho nguyên đơn là vi phạm pháp luật lao động. Nội dung quyết định vi phạm pháp luật lao động về căn cứ, thời hạn chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động đã ký. Việc điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M1 - Chi nhánh 5 không đúng chức vụ của quyết định số 1584/QĐ-NHNo-TCTL và quyết định số 1585/QĐ-NHNo-TCTL ngày 21 tháng 9 năm 2017, không đúng sở trường công tác, nếu nguyên đơn cố làm có thể gây hậu quả xấu cho Đảng và Nhân dân. Do đó, nguyên đơn từ chối nhận chức vụ mới, kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2020 cho đến nay nguyên đơn không được trả lương, phụ cấp, thưởng và các chế độ khác.
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, tại đơn khởi kiện ngày 24 tháng 6 năm 2020, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu A thu hồi quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ-NHNo5- TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của A - Chi nhánh 5 về việc điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing của A Chi nhánh 5; Khôi phục chức vụ, chế độ làm việc, quyền lợi trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Trực tiếp cải chính, xin lỗi, công khai nguyên đơn tại trụ sở A - Chi nhánh 5; Thanh toán tiền lương, tiền thưởng, chế độ, phụ cấp chưa thanh toán đến thời điểm thi hành án; Bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần bằng 10 lần mức lương bình quân được hưởng 12 tháng liền kề trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Bồi thường chi phí tố tụng theo hợp đồng tư vấn pháp lý, tạm tính số tiền 50.000.000 đồng; Bồi thường tiền lãi chậm trả phát sinh từ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, chế độ khác bị ngừng chi trả đến thời điểm thi hành án, mức lãi suất là 20%/năm.
Theo đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2021, nguyên đơn rút lại các yêu cầu khởi kiện sau với bị đơn: Thanh toán tiền lương, tiền thưởng, chế độ, phụ cấp chưa thanh toán đến thời điểm thi hành án; Bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần bằng 10 lần mức lương bình quân được hưởng 12 tháng liền kề trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Bồi thường chi phí tố tụng theo hợp đồng tư vấn pháp lý, tạm tính số tiền 50.000.000 đồng; Bồi thường tiền lãi chậm trả phát sinh từ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, chế độ khác bị ngừng chi trả đến thời điểm thi hành án, mức lãi suất là 20%/năm. Các yêu cầu còn lại nguyên đơn tiếp tục yêu cầu giải quyết.
* Quá trình tố tụng bị đơn trình bày:
Bị đơn xác nhận, hai bên đã xác lập quan hệ lao động, loại hợp đồng lao động, loại công việc như nguyên đơn trình bày là đúng. A - Chi nhánh Q là chi nhánh trực thuộc Ngân hàng N theo quyết định số 161/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 29 tháng 02 năm 2008 của Hội đồng quản trị A; quyết định số 1355/QĐ-HĐTV-TCTL ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng thành viên A thay đổi tên gọi A - Chi nhánh Q thành A - Chi nhánh 5.
Ngân hàng N - Chi nhánh N1 (viết tắt A - Chi nhánh N1) là chi nhánh trực thuộc Ngân hàng N theo quyết định số 448/QĐ/HĐTV-TCTL ngày 17 tháng 7 năm 2015 của Hội đồng thành viên A; theo quyết định số 1356/QĐ-HĐTV-TCTL ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng thành viên A thì A - Chi nhánh N1 là Chi nhánh loại II trực thuộc A - Chi nhánh 5 kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2019.
Sau khi tiếp nhận A - Chi nhánh N1, A - Chi nhánh 5 nhận thấy sự yếu kém trong công tác tín dụng của A - Chi nhánh N1 là nguyên nhân tỷ lệ nợ xấu lớn, có xu hướng ngày càng tăng. Tại thời điểm tiếp nhận, nguyên đơn là Phó Giám đốc A - Chi nhánh N1 phụ trách công tác tín dụng, chịu trách nhiệm hoạt động cho vay và thu hồi nợ. Theo quyết định số 1398/QĐ-NHNo5-TH ngày 30 tháng 9 năm 2019, nguyên đơn được giao nhiệm vụ tổ trưởng tổ xử lý, thu hồi nợ xấu tại A - Chi nhánh N1. Tuy nhiên, sau một thời gian tình hình nợ xấu vẫn không giảm mà có xu hướng tăng cao. Ngày 16 tháng 11 năm 2019, A - Chi nhánh 5 họp, làm việc với tổ xử lý, thu hồi nợ xấu của A - Chi nhánh N1 nhưng nguyên đơn không tham gia vì ông đang theo học lớp cao học luật. Tại cuộc họp Giám đốc A - Chi nhánh N1 cam kết đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh sẽ giảm, nếu không giảm thì sẽ thay đổi nhân sự cấp lãnh đạo. Cũng tại quyết định số 1764/QĐ-NHNo5-TH ngày 02 tháng 12 năm 2019 của A Chi nhánh 5 đã bổ sung Giám đốc A - Chi nhánh N1 vào tổ xử lý, thu hồi nợ xấu nhưng đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 tỷ lệ nợ xấu vẫn không cải thiện đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của A - Chi nhánh N1 và A - Chi nhánh 5.
Ngày 20 tháng 4 năm 2020, A - Chi nhánh 5 họp hội nghị liên tịch, chủ trương thay đổi nhân sự lãnh đạo A - Chi nhánh N1 để xử lý, thu hồi nợ xấu. A - Chi nhánh 5 thống nhất trình Ngân hàng N để ông Trần Phước S được thôi kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc A - Chi nhánh N1, đảm nhiệm chức vụ Phó Giám đốc A - Chi nhánh 5. Đồng thời, điều động nguyên đơn là Phó Giám đốc A - Chi nhánh N1 giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing thuộc A - Chi nhánh 5.
Ngày 27 tháng 4 năm 2020, A - Chi nhánh 5 mời nguyên đơn đến để thông báo điều động và bổ nhiệm nguyên đơn đến nhận nhiệm vụ tại phòng Dịch vụ và M thuộc A - Chi nhánh 5. Tuy nhiên, kể từ ngày công bố quyết định ngày 29 tháng 4 năm 2020 cho đến nay, nguyên đơn không có mặt tại nơi làm việc, không rõ lý do, dù đã nhiều lần nhắc nhở. Ngày 04 tháng 5 năm 2020, nguyên đơn có đơn khiếu nại A - Chi nhánh 5 về việc điều động và bổ nhiệm nguyên đơn. A - Chi nhánh 5 đã giải quyết khiếu nại nhưng nguyên đơn không chấp nhận. Nguyên đơn đã vi phạm nội quy lao động, tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong một tháng. Ngày 28 tháng 7 năm 2020, A - Chi nhánh 5 ra quyết định xử lý kỷ luật lao động số 1066/QĐ-NHNo5-TH bằng hình thức sa thải nguyên đơn. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có ý kiến:
Về yêu cầu thu hồi quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của A - Chi nhánh 5. A cho rằng về trình tự, thủ tục ban hành quyết định là đúng pháp luật.
Theo quyết định số 1356/QĐ-HĐTV-TCTL ngày 25 tháng 12 năm 2018 chuyển A - Chi nhánh N1 thành Chi nhánh loại II, trực thuộc A - Chi nhánh 5; khoản 3 Điều 3 quyết định số 668/QĐ-HĐTV-ƯBNS ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Ngân hàng N thì: “Cấp nào quyết định bổ nhiệm/phê duyệt nhân sự thì cấp đó có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm lại, kéo dài thời hạn giữ chức vụ, từ chức, đình chỉ, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển đối với người giữ chức vụ” và khoản 5 Điều 4 quyết định số 668/QĐ-HĐTV-UBNS thì: “Trưởng các đơn vị: Ủy ban, B, Trung tâm và tương đương tại Trụ sở chính, Văn phòng đại diện Giám đốc Chi nhánh loại I, A chi nhánh tại nước ngoài, Đơn vị sự nghiệp, Chủ tịch công ty do A sở hữu 100% vốn điều lệ thực hiện quyền bổ nhiệm các chức danh ngoài các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc và Giám đốc Chi nhánh loại II”; khoản 4 Điều 44 của quyết định số 2059/VBHN-HĐTV-TCTL ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng N thì Giám đốc Chi nhánh loại I: “Quyết định công tác nhân sự đối với T1, Phó phòng tại Hội sở (trừ Trưởng phòng có chức năng cấp tín dụng; Giám đốc Chi nhánh loại II chưa được xếp hạng; Phó Giám đốc, Trưởng phòng Chi nhánh loại II; Giám đốc, Phó Giám đốc Phòng giao dịch, Tổ trưởng phụ thuộc Hội sở; Giám đốc Phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh loại II”. Do đó, Giám đốc A - Chi nhánh 5 ban hành quyết định điều động và bổ nhiệm nguyên đơn, Phó Giám đốc A - Chi nhánh N1 giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing của A - Chi nhánh 5 là phù hợp quy định của Ngân hàng N.
Về yêu cầu khôi phục chức vụ, chế độ làm việc, quyền lợi của nguyên đơn như trước thời điểm ngày 01 tháng 5 năm 2020. Bị đơn cho rằng nguyên đơn tự ý nghỉ việc kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2020 cho đến nay. A - Chi nhánh 5 nhiều lần thông báo về thời giờ làm việc nhưng nguyên đơn không nhận được phản hồi. A - Chi nhánh 5 tiến hành quy trình xử lý kỷ luật sa thải nguyên đơn là đúng pháp luật.
Về yêu cầu A - Chi nhánh 5 trực tiếp cải chính, xin lỗi, công khai tại trụ sở A. Bị đơn cho rằng nguyên đơn không chấp hành nhiệm vụ được phân công, điều động. A - Chi nhánh 5 rất cố gắng liên lạc, tìm cách đối thoại với nguyên đơn nhung không có kết quả. A - Chi nhánh 5 phải giải quyết hậu quả liên quan đến công việc nguyên đơn để lại.
Bị đơn đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không có cơ sở. Bị đơn không có ý kiến nào khác, không có yêu cầu phản tố với nguyên đơn.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 55/2021/LĐ-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đặng Tú K buộc Ngân hàng N thu hồi quyết định số: 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số: 556/QĐ- NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Ngân hàng N - Chi nhánh 5 về việc điều động và bổ nhiệm ông Bùi Đặng Tú K giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M thuộc Ngân hàng N - Chi nhánh Q.
2. Đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đặng Tú K yêu cầu Ngân hàng N thanh toán tiền lương, tiền thưởng, chế độ, phụ cấp chưa thanh toán đến thời điểm thi hành án; Khôi phục chức vụ, chế độ làm việc, quyền lợi trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Trực tiếp cải chính, xin lỗi, công khai nguyên đơn tại trụ sở A - Chi nhánh 5; Bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần bằng 10 lần mức lương bình quân được hưởng 12 tháng liền kề trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Bồi thường chi phí tố tụng theo hợp đồng tư vấn pháp lý, tạm tính số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); Bồi thường tiền lãi chậm trả phát sinh từ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, chế độ khác bị ngừng chi trả đến thời điểm thi hành án, mức lãi suất là 20%/năm.
3. Về án phí: Ngân hàng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp lao động số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Ông Bùi Đặng Tú K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp lao động; hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0029843 ngày 13 tháng 10 năm 2020 và số tiền 783.750đ (bảy trăm tám mươi ba nghìn, bảy trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0029842 ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1.
Ngày 16/12/2021 bị đơn là Ngân hàng N nộp đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, không đồng ý bản án sơ thẩm đã xét xử. Yêu cầu sửa một phần bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn là ông Bùi Đặng Tú K không rút đơn khởi kiện, Đại diện bị đơn - Ngân hàng N không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Người kháng cáo là bị đơn Ngân hàng N trình bày: Bản án lao động sơ thẩm đã tuyên là không hợp lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của A.
- Nguyên đơn ông Bùi Đặng Tú K trình bày: Bản án lao động sơ thẩm số 55/2021/LĐ-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh được xét xử đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Luật sư: Về thẩm quyền ban hành Quyết định 555 và Quyết định 556:
Kể từ ngày 15/01/2019, A đã được xác định là Chi nhánh loại II, hạng 3, trực thuộc A Chi Nhánh 5 theo Quyết định số 1356/QĐ-HĐTV-TCTL ngày 25/12/2018 của Hội đồng thành viên A. Thẩm quyền việc quyết định công tác nhân sự đối với chức danh Phó Giám đốc Chi nhánh N1 đã có sự thay đổi và thuộc thẩm quyền của Giám đốc A Chi Nhánh 5, không còn thuộc thẩm quyền của Tổng Giám đốc A vì A đã được xếp hạng là Chi nhánh loại II, không còn là Chi nhánh loại I như trước.
- Về trình tự ban hành Quyết định 555 và Quyết định 556: A đã có nhiều cuộc họp về việc chi nhánh N1 để tỷ lệ nợ xấu cao và đã thông báo nếu tỷ lệ nợ xấu vẫn không giảm xuống thì sẽ thay đổi nhân sự cấp lãnh đạo tại A.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử
* Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định:
Tại khoản 3 Điều 20 Văn bản số 2059/VBHN-HĐTV-TCTL ngày 31/12/2016 của A ban hành quy chế quản lý lao động trong hệ thống A thì người có thẩm quyền quản lý lao động của A có quyền điều động, luân chuyển người lao động nhưng phải thông báo cho người lao động trước 03 ngày làm việc. Ngày 27/4/2020, Giám đốc A- Chi nhánh 5 mời ông Tú K đến làm việc để thông báo về việc điều động. Ngày 28/4/2020, Giám đốc A- Chi nhánh 5 ban hành Quyết định số 555 và Quyết định số 556 là chưa đảm bảo về thời hạn báo trước.
Tại phiên tòa, bị đơn thừa nhận không có biên bản hay tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh A - Chi nhánh 5 đã thực hiện việc báo trước, trao đổi cũng như ghi nhận nguyện vọng, ý kiến của ông K theo quy định là không đúng trình tự, thủ tục điều động luân chuyển trong hệ thống A.
Do đó, xác định Quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và Quyết định số 556/QĐ- NHNo5-TH ngày 28/4/2020 của A - Chi nhánh 5 điều động, bổ nhiệm ông Tú K là có vi phạm về trình tự, thủ tục.
Từ những phân tích trên nhận thấy, nội dung tuyên xử của Tòa án cấp sơ thẩm về việc chấp nhận yêu cầu của ông Bùi Đặng Tú K buộc A thu hồi Quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và Quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH ngày 28/4/2020 của A - Chi nhánh 5 về việc điều động, bổ nhiệm ông Tú K là phù hợp. Nội dung kháng cáo của A là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 55/2021/LĐ-ST ngày 07/12/2021 của TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về thẩm quyền:
Căn cứ Nghị định số 24/2018/NĐ-CP ngày 27/2/2018 của chính phủ quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực lao động, giáo dục nghề nghiệp, hoạt động đua người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, việc làm, an toàn, vệ sinh lao động. Tại điểm a khoản 2 điều 10 mục 2 quy định: “Người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong trường hợp sau đây:
- Có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của người sử dụng lao động; tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp; doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình - Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 23 Nghị định này;
Việc ông Bùi đặng Tú K1 khởi kiện quyết định điều động của Giám đốc A chi nhánh Q và Tòa án nhân Quận 1 thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về hình thức: Kháng cáo của bị đơn Ngân hàng N trong hạn luật định, phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[3]. Về người tham gia tố tụng:
Nguyên đơn ông Bùi Đặng Tú K là người khởi kiện tranh chấp với Bị đơn Ngân hàng N là đúng quy định của pháp luật.
[4]. Về nội dung: Bị đơn Ngân hàng N kháng cáo cho rằng Bản án lao động sơ thẩm số 55/2021/TĐ-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử là không hợp lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của A.
[5]. Xét kháng cáo của bị đơn Ngân hàng N Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ vào hợp đồng lao động ngày 20 tháng 5 năm 2015 giữa nguyên đơn ông Bùi Đặng Tú K và Ngân hàng N - Chi nhánh A1 ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, thời hạn hợp đồng kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2015; giữa Ngân hàng N với ông Bùi Đặng Tú K là cơ sở pháp lý. Nguyên đơn ông Bùi Đặng Tú K khởi kiện yêu cầu xem xét buộc bị đơn thu hồi Quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ-NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của A - Chi nhánh 5 điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M1 - Chi nhánh 5. Nhận thấy, căn cứ khoản 5 Điều 4 quyết định số 668/QĐ-HĐTV-UBNS thì: “Trưởng các đơn vị: Ủy ban, B, Trung tâm và tương đương tại Trụ sở chính, Văn phòng đại diện Giám đốc Chỉ nhánh loại I, A chỉ nhánh tại nước ngoài, Đơn vị sự nghiệp, Chủ tịch công ty do A sở hữu 100 % vốn điều lệ thực hiện quyền bổ nhiệm các chức danh ngoài các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc và Giám đốc Chi nhánh loại II”; khoản 4 Điều 44 của quyết định số 2059/VBHN-HĐTV-TCTL ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng N thì Giám đốc Chi nhánh loại I: “Quyết định công tác nhân sự đối với T1, Phó phòng tại Hội sở (trừ Trưởng phòng có chức năng cấp tín dụng; Giám đốc Chi nhánh loại II chưa được xếp hạng; Phó Giám đốc, Trưởng phòng Chi nhánh loại II; Giám đốc, Phó Giám đốc Phòng giao dịch, Tổ trưởng phụ thuộc Hội sở; Giám đốc Phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh loại II”. Do đó, Giám đốc A - Chi nhánh 5 ban hành quyết định điều động và bổ nhiệm nguyên đơn, Phó Giám đốc A - Chi nhánh N1 giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing của A - Chi nhánh 5 là phù hợp đúng quy định của Ngân hàng N.
Do A chi nhánh N1 đã có quyết định số 1356/QĐ-HĐTV-TVTL Ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng thành viên A ban hành thì A - Chi nhánh N1 là Chi nhánh loại II hạng 3 trực thuộc A - Chi nhánh 5 kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2019. Trên cơ sở quyết định này ngày 28 tháng 4 năm 2020 giám đốc A - Chi nhánh 5 có quyết định số 555/QĐ-NHNo5-TH điều động và bổ nhiệm nguyên đơn (ông K) giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing thuộc A - Chi nhánh 5 là căn cứ vào khoản 3 Điều 3 quyết định số 668/QĐ-HĐTV-UBNS ngày 26 tháng 6 năm 2018, khoản 5 Điều 4 quyết định số 668/QĐ-HĐTV-UBNS; khoản 4 Điều 44 của quyết định số 2059/VBHN-HĐTV-TCTL ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng N để điều động nhân sự trực thuộc. Do vậy việc điều động nhân sự của giám đốc A chi nhánh 5 là đúng thẩm quyền.
Việc thay đổi nhân sự cấp lãnh đạo tại A là do tỷ lệ nợ xấu tại chi nhánh này vẫn không giảm xuống đã được đặt ra vào hơn 06 tháng, trước khi có quyết định chính thức. Chấp hành sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng A, việc thay đổi chức vụ của Ông K đã trải qua một quá trình cân nhắc, xem xét, đánh giá bởi các lãnh đạo của A Chi Nhánh 5 và A. A Chi Nhánh 5 cũng đã thực hiện việc thông báo cho Ong K trước khi chính thức bổ nhiệm chức vụ mới cho Ông K, cụ thể:
- Qua các cuộc kiểm tra, A Chi Nhánh 5 nhận thấy sự yếu kém trong công tác tín dụng tại A và xác định đây là một chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu rất lớn và có xu hướng ngày càng tăng. Vì thế, từ ngày 01/10/2019, Ông K được giao nhiệm vụ làm Tổ trưởng Tổ xử lý, thu hồi nợ xấu tại A theo Quyết định số 1398/QĐ-NHNo5-TH ngày 30/9/2019.
- Ngày 16/11/2019, Ban lãnh đạo A Chi Nhánh 5 đã mở một cuộc họp làm việc với Tổ xử lý, thu hồi nợ xấu của A vì đã qua một thời gian nhưng tình hình nợ xấu vẫn chưa có sự thay đổi mà còn có xu hướng tăng cao. Tại cuộc họp, Giám đốc A - ông Trần Phước S đã cam kết đến hết 30/4/2020 sẽ giảm tỷ lệ nợ xấu tại chi nhánh, nếu tỷ lệ nợ xấu vẫn không giảm xuống thì sẽ thay đổi nhân sự cấp lãnh đạo tại A.
Ông K đã được triệu tập để tham gia cuộc họp nhưng vẫn vắng mặt do bận tham gia lớp cao học luật mà chưa được sự đồng ý của ban giám đốc. Tại cuộc họp đã phê bình ông K bản thân là đảng viên nhưng không chấp hành, không tham gia cuộc họp nào, thiếu trách nhiệm với tổ chức. Biên bản họp kiểm điểm trách nhiệm cá nhân ngày 13/3/2020 có mặt ông K (BL79). BB hội nghị liên tịch về việc thay đổi nhân sự lãnh đạo Nam Hoa ngày 2/4/2020 (BL 76).
- Do tỷ lệ nợ xấu vẫn không cải thiện nên ngày 20/4/2020 Ban Giám đốc A Chi Nhánh 5 đã họp Hội nghị liên tịch với cấp ủy và chủ trương thay đổi nhân sự cấp lãnh đạo tại A, Ban lãnh đạo A Chi Nhánh 5 cũng quyết định thay đổi chức vụ của nhiều nhân sự cấp lãnh đạo khác tại A. Điều động cả Ban giám đốc và nhiều chức danh khác của chi nhánh N1 tổng cộng là 5 vị trí. Bên cạnh đó cũng xem xét việc thay đổi chức vụ của Ông K để ông nhận nhiệm vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M thuộc A Chi Nhánh 5.
- Trên cơ sở cuộc họp này, ngày 27/4/2020, Giám đốc A Chi Nhánh 5 đã mời Ông K đến làm việc để thông báo với Ông K về việc điều động ông nhận nhiệm vụ tại phòng Dịch vụ và M2 của A Chi nhánh 5.
- Đến ngày 28/4/2020, Giám đốc A Chi Nhánh 5 mới ban hành Quyết định 555 và Quyết định 556 về việc điều động và bổ nhiệm Ông K đến nhận nhiệm vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M tại A Chi Nhánh 5 trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày 01/5/2020.
Như vậy, qua nhiều cuộc họp kéo dài từ năm 2019 cho đến ngày 27/4/2020 là ngày Giám đốc A chi nhánh 5 đã có buổi làm việc trực tiếp với ông K về việc sẽ điều động ông K sang vị trí khác. Nên không thể nói ông K không biết trước việc sẽ được điều động nhận nhiệm vụ mới. Việc điều động toàn bộ nhân sự Ban giám đốc và các vị trí khác trong A chi nhánh N1 là chủ trương của ban cán sự Đảng A.
Sau khi có quyết định điều động ông K về giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và Marketing của A - Chi nhánh 5, Ông K không nhận quyết định và cũng không thực hiện việc bàn giao. Thể hiện ý thức chấp hành, ý thức tổ chức kỷ luật của Đảng viên là kém. Tự ý bỏ việc không đến trụ sở làm việc.
Ngày 28 tháng 7 năm 2020, A - Chi nhánh 5 ra quyết định xử lý kỷ luật lao động số 1066/QĐ-NHNo5-TH bằng hình thức sa thải nguyên đơn. Như vậy kể từ ngày 28/7/2020 giữa nguyên đơn ông Bùi Đặng Tú K và Ngân hàng N không tồn tại bất kỳ quan hệ lao động nào. Thực tế ông K không còn làm việc tại Ngân hàng N cho tới nay là gần 3 năm. Ông K không khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải số 1066/QĐ-NHNo5-TH Ngày 28 tháng 7 năm 2020 của A - Chi nhánh 5. Do đó quan hệ lao động giữa hai bên đã chấm dứt và không còn tồn tại.
Quyết định điều động số 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số 556/QĐ- NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của A - Chi nhánh 5 điều động và bổ nhiệm nguyên đơn giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M1 - Chi nhánh 5 của giám đốc ngân hàng A chi nhánh 5 đã ban hành đúng thẩm quyền, tuy nhiên đã không còn ý nghĩa và tồn tại do quan hệ lao động giữa hai bên đã chấm dứt kể từ ngày 28/7/2020. Do vậy, án sơ thẩm đã nhận định như trên là không đúng và chưa đầy đủ. Hội đồng xét xử nhận thấy để đảm bảo tính ổn định trong công tác nhân sự của cũng như tính thống nhất lãnh đạo chỉ đạo của ban cán sự đảng của A - Chi nhánh 5 trong công tác điều hành đối nội cũng như đối ngoại. Xét, kháng cáo của bị đơn Ngân hàng N là có căn cứ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo cũng như luận cứ của luật sư như đã phân tích như trên do vậy không thể chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Về án phí lao động phúc thẩm: bị đơn Ngân hàng N không phải nộp án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ khoản 1,5 Điều 32, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bị đơn Ngân hàng N.
- Sửa bản án sơ thẩm:
1. Không Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đặng Tú K buộc Ngân hàng N thu hồi quyết định số: 555/QĐ-NHNo5-TH và quyết định số: 556/QĐ-NHNo5-TH ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Ngân hàng N - Chi nhánh 5 về việc điều động và bổ nhiệm ông Bùi Đặng Tú K giữ chức vụ Phó Trưởng phòng Dịch vụ và M thuộc Ngân hàng N - Chi nhánh Q.
2. Đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đặng Tú K yêu cầu Ngân hàng N thanh toán tiền lương, tiền thưởng, chế độ, phụ cấp chưa thanh toán đến thời điểm thi hành án; Khôi phục chức vụ, chế độ làm việc, quyền lợi trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Trực tiếp cải chính, xin lỗi, công khai nguyên đơn tại trụ sở A - Chi nhánh 5; Bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần bằng 10 lần mức lương bình quân được hưởng 12 tháng liền kề trước ngày 01 tháng 5 năm 2020; Bồi thường chi phí tố tụng theo hợp đồng tư vấn pháp lý, tạm tính số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); Bồi thường tiền lãi chậm trả phát sinh từ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, chế độ khác bị ngừng chi trả đến thời điểm thi hành án, mức lãi suất là 20%/năm.
- Án phí phúc thẩm:
Ngân hàng N không phải nộp án phí phúc thẩm. Hoàn lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0005265 ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cho Ngân hàng N.
Ông Bùi Đặng Tú K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp lao động; hoàn lại cho ông K số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0029843 ngày 13 tháng 10 năm 2020 và số tiền 783.750đ (bảy trăm tám mươi ba nghìn, bảy trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0029842 ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp liên quan đến việc làm, tiền lương số 767/2022/LĐ-PT
Số hiệu: | 767/2022/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 14/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về