Bản án về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án số 57/2024/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 57/2024/DS-PT NGÀY 25/01/2024 VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN BỊ CƯỠNG CHẾ ĐỂ THI HÀNH ÁN

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 568/2023/TLPT-DS ngày 14 tháng 12 năm 2023 về việc: “Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 278/2023/DS-ST ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 16/2023/QĐ-PT ngày 08 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần H sinh năm 1956.

Địa chỉ: Ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đào Công K, sinh năm 1964 (có mặt).

Địa chỉ: Số 10D, Lê Hồng Phong, khóm 7, phường 8, thành phố C, tỉnh C.

- Bị đơn: 1. Ông Trần Quốc T, sinh năm 1978 (vắng mặt).

2. Bà Trần Tú Y, sinh năm 1980 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Số 45/5, Lâm Thành Mậu, khóm 3, phường 4, thành phố C, tỉnh C.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Quốc T: Bà Trần Tú Y, sinh năm 1980 (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.

Địa chỉ: Số 3, đường Huyền Trân Công Chúa, phường 5, thành phố C, tỉnh C.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Hoàng D - Chấp hành viên.

2. Bà Võ Thị Ngọc D1, sinh năm 1967 (có mặt).

3. Ông Trương Thành Công, sinh năm 1960 (có mặt) Cùng địa chỉ: Số 41, Lý Thường Kiệt, khóm 7, phường 6, thành phố C, tỉnh C.

4. Bà Quách Mỹ Q, sinh năm 1958 (vắng mặt).

5. Anh Trần Quốc T, sinh năm 1982 (vắng mặt).

6. Anh Trần Quốc T1, sinh năm 1983 (vắng mặt).

7. Chị Trần Như K, sinh năm 1999 (vắng mặt).

8. Chị Lê Thị Tuyết H, sinh năm 1987 (vắng mặt).

9. Cháu Trần Quốc T2, sinh năm 2008 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của cháu T2: Anh Trần Quốc T1 và chị Lê Thị Tuyết H.

Cùng địa chỉ: ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Ông Trần H S là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, ông Trần Hùng S do người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Theo Bản án số 90/2021/DS-PT ngày 28/4/2021 của Tòa án tỉnh C tuyên xử buộc ông Trần Quốc T và bà Trần Tú Y (con trai và con dâu của ông S) có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Công, bà D1 số tiền 1.997.910.000 đồng. Ngày 17/5/2021, Chi Cục thi hành án dân sự thành phố C đã tiến hành kê biên, xử lý tài sản của ông T và bà Y, trong đó có căn nhà tường cùng 700m2 đất và một số cây trái, cây kiểng do ông S trồng. Ông S cho rằng, trong phần tài sản kê biên trên, ông S xác định phần nhà tường và 700m2 đất là của ông S. Phần đất của anh T và chị Y là 213,9m2. Việc anh T và chị Y đưa tài sản trên của ông S vào cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố C kê biên, ông S không đồng ý. Nguồn gốc phần đất này ông S cho rằng vào tháng 9/2015 ông S cho vợ chồng anh T và chị Y mượn 200.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng khoảng 700m2 đất của ông Trương Tấn L và có thỏa thuận sau khi nhận chuyển nhượng thì anh T và chị Y cho ông S mượn toàn bộ diện tích đất này để cất nhà, anh T và chị Y chỉ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó khoảng 01 năm, ông S chuẩn bị cất nhà nên đã thỏa thuận nhận chuyển nhượng lại phần đất do anh T và chị Y đứng tên với giá 600.000.000 đồng. Do thời điểm này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh T và chị Y đang thế chấp ngân hàng nên không thực hiện việc chuyển tên được. Vào ngày 12/5/2022 Ngân hàng HDBank phát thông báo thu hồi nợ quá hạn yêu cầu ông T và bà Y thanh toán nợ nếu không trả ngân hàng sẽ làm thủ tục phát mãi tài sản nên ông S đã trả phần tiền nợ ngân hàng thay cho anh T và chị Y là 722.820.000 đồng để nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục chuyển nhượng nhưng do tài sản trên đang bị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà M kê biên để thi hành án cho ông Trương Thành Công và bà Võ Thị Ngọc D1 nên ông S không chuyển tên được. Hiện nay ông S yêu cầu Tòa án công nhận căn nhà nêu trên và 700m2 đất (trong đó có 300m2 đất thổ cư và 400m2 đất trồng cây lâu năm) và toàn bộ cây trồng trên đất tại ấp 1, xã Tắc Vân, thành phố C, tỉnh C thuộc thửa số 190, tờ bản đồ số 7 là tài sản thuộc sở hữu của ông S. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu của ông S thì yêu cầu anh T và chị Y hoàn trả cho ông giá trị căn nhà là 800.000.000 đồng, giá trị đất là 722.000.000 đồng, chi phí san lấp các ao trũng là 400.000.000 đồng, giá trị cây trồng trên đất là 70.000.000 đồng. Tổng cộng là 1.992.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông S yêu cầu Tòa án công nhận cho ông S phần diện tích nhà và đất đã xây cất nhà diện tích là 140m2, phần còn lại đồng ý giao cơ quan Thi hành án phát mãi để thi hành án. Không yêu cầu đối với cây trồng trên đất.

Bị đơn, chị Trần Tú Y và đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của anh Trần Quốc T trình bày: Chị Y thừa nhận vào tháng 9/2015 vợ chồng chị có mượn của ông Trần H Sơn (là cha chồng) số tiền 200.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng đất của ông Trương Tấn L và có thỏa thuận sau khi nhận chuyển nhượng đất sẽ cho ông S mượn phần đất này để cất nhà. Khoảng 01 năm sau, vợ chồng chị đồng ý chuyển nhượng lại cho ông S toàn bộ phần đất trên với giá 600.000.000 đồng, hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không có làm giấy tờ. Do sổ đỏ đang thế chấp để vay Ngân hàng nên chưa thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được. Vào ngày 12/5/2022, do khoản nợ Ngân hàng HD Bank đã thông báo thu hồi nợ quá hạn nên ông S đã trả nợ thay cho vợ chồng chị để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm thủ tục chuyển nhượng nhưng do toàn bộ phần tài sản nhà và đất nêu trên cùng với cây ăn trái, cây kiểng trên phần đất này đã bị kê biên thi hành án cho ông Công và bà D1 nên vợ chồng chị không thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất với ông S được. Do đó, chị Y yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ tài sản là nhà và đất cùng với các cây trồng trên đất cho ông Trần H S. Trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu công nhận nhà và đất thuộc quyền sở hữu của ông S thì chị Y và anh T đồng ý hoàn trả cho ông S tổng cộng số tiền là 1.922.000.000 đồng, trong đó giá trị căn nhà là 800.000.000 đồng, giá trị đất là 722.820.000 đồng, chi phí san lấp ao trũng là 400.000.000 đồng. Đối với chi phí đo đạc, bị đơn đồng ý hoàn trả lại cho nguyên đơn.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lưu Hoài D, Đại diện Chi cục thi hành án dân sự thành phố C trình bày: Chi Cục THADS đang tổ chức thi hành Bản án số 213/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C và Bản án số 90/2021/DS-PT ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh C đối với ông Trần Quốc T và bà Trần Tú Y. Ngày 06/7/2021 Chấp hành viên Chi cục THADS thành phố C ban hành Quyết định số 99/QĐ-CCTHADS kê biên toàn bộ tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất thuộc thửa số 190, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh C .; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 08/6/2017 cho ông Trần Quốc T và bà Trần Tú Y đứng tên, đang thế chấp vay vốn tại Ngân hàng TMCP phát triển thành phố Hồ Chí Minh – Chi nhánh C, để đảm bảo thi hành bản án. Do tài sản còn đang tranh chấp với ông Trần H S vì vậy việc thi hành án bị tạm dừng để ông S khởi kiện. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà M không đồng ý yêu cầu của ông S với anh T và chị Y về việc công nhận tài sản nhà và đất nêu trên thuộc quyền sử dụng cho ông S - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Võ Ngọc D1 và ông Trương Thành Công trình bày: Hiện Chi Cục THADS đang tổ chức thi hành Bản án số 213/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 và Bản án số 90/2021/DS-PT ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh C đối với ông Trần Quốc T và bà Trần Tú Y. Là người phải thi hành án cho ông Công và bà D1. Ngày 06/7/2021, Chi cục THADS thành phố C ban hành Quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 954415, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 08/6/2017 cho ông Trần Quốc T và bà Trần Tú Y. Tài sản nêu trên là của ông T và bà Y, không có bất kỳ tài sản nào của ông Trần H Sơn trên đất nhưng ông T và bà Y đồng ý yêu cầu công nhận nhà đất cho ông S thì ông T và bà Y không còn tài sản để thi hành án. Vì vậy ông Công và bà D1 yêu cầu Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông S.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Quách Mỹ Q là vợ ông S cùng với anh Trần Quốc T, anh Trần Quốc T1, chị Trần Như K, chị Lê Thị Tuyết Hạnh là con và dâu ông S thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của ông S.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 278/2023/DS-ST ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần H S đối với anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 700m2 đất và công nhận quyền sở hữu nhà và cây trồng trên đất có diện tích 700m2 thuộc thửa số 190, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh C . thuộc quyền sở hữu của ông S.

Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần H S với anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y vô hiệu.

Ghi nhận sự thỏa thuận của ông Trần H S và anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y về việc anh T và chị Y trả cho ông S tổng số tiền 1.922.000.000 đồng (trong đó giá trị quyền sử dụng đất là 722.000.000 đồng, chi phí san lấp 400.000.000 đồng, giá trị căn nhà là 800.000.000 đồng).

Buộc ông Trần H S và những người trong gia đình ông S phải di dời và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 954415, số vào sổ CS 00236, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 08/6/2017 cho anh Trần Quốc T và chị Trần Tú Y.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 08/11/2023 nguyên đơn là ông Trần H S kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông S.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của ông S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và tranh luận cho rằng việc ông S nhận chuyển nhượng nhà và đất của anh T và chị Y không có làm văn bản nhưng đã qua ông S đã trả nợ cho Ngân hàng số tiền 722.000.000 đồng thay cho anh T và chị Y và hiện nay đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh T và chị Y đứng tên, do đó yêu cầu Tòa án công nhận nhà và đất là của ông S.

Chị Y tranh luận cho rằng hiện nay chị đã chuyển nhượng diện tích 700m2 đất do vợ chồng chị đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S nên chị yêu cầu công nhận nhà và đất thuộc quyền sử dụng của ông S. Đối với khoản nợ phải thi hành cho ông Công và bà D1 thì chị Y đồng ý thi hành án nhưng hiện tại chị không còn tài sản để thi hành án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Trần H S, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành CH 954415, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 08/6/2017 cho anh Trần Quốc T và chị Trần Tú Y đứng tên với diện tích là 913,9m2 cùng với Giấy phép xây dựng số 972/GPXD do UBND thành phố C, tỉnh C cấp ngày 04/11/2019 cho anh T, chị Y. Do đó, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y. Ông S cho rằng đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của anh T và chị Y với diện tích khoản 700m2 giá 600.000.000 đồng vào năm 2017 nhưng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không có làm văn bản không được công chứng, chứng thực theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013. Do đó không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của ông S về việc đã nhận chuyển nhượng đất của anh T và chị Y. Vào ngày 04/11/2019, anh T và chị Y xin cấp phép xây dựng và được UBND thành phố C cấp giấy phép số 972/GPXD để xây dựng nhà ở. Đến ngày 09/4/20220, anh T và chị Y đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng để vay vốn tại Ngân hàng TMCP phát triển thành phố Hồ Chí Minh - Chi nhánh C (HDBank). Trong thời gian này, anh T và chị Y đang phải thi hành Bản án số 213/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 và Bản án số 90/2021/DS-PT ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh C, người được thi hành án là ông Trương Thành Công và bà Võ Thị Ngọc D1 nên Chi Cục thi hành án dân sự thành phố C ban hành Quyết định số 99/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thi hành án. Do đó, vào ngày 16/5/2022 ông S đã trả nợ cho Ngân hàng HDBank số tiền 722.820.000 đồng thay cho anh T và chị Y để nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh T và chị Y. Mặc dù ông S cho rằng ông trả nợ cho Ngân hàng HDBank để nhận chuyển nhượng đất được chị Y và anh T thừa nhân, tuy nhiên do tại thời điểm này tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của chị Y và anh T đang bị kê biên để thi hành án cho ông Công và bà D1, do đó theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 ông S không đủ điều kiện để thực hiện việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của anh T và chị Y. Do đó không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông S.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông S yêu cầu công nhận phần đất có nhà ông S cùng với bà Quách Mỹ Q, anh Trần Quốc T, anh Trần Quốc T1, chị Trần Như K, chị Lê Thị Tuyết H và cháu Trần Quốc T2 đang ở có diện tích 140m2 cho ông S nhưng do phần nhà và đất gắn liền với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh T và chị Y đang bị kê biên để thi hành án không được Chi cục thi hành án dân sự thành phố C và ông Công, bà D1 đồng ý, do phần tài sản còn lại không đủ để thi hành án nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông S.

[3] Đối với yêu cầu của ông S về việc yêu cầu anh T và chị Y hoàn trả giá trị căn nhà là 800.000.000 đồng, giá trị đất là 722.000.000 đồng, chi phí san lấp các ao trũng là 400.000.000 đồng, tổng cộng là 1.922.000.000 đồng được chị Y và anh T đồng ý nên cấp sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này là phù hợp. [4] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông S không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông S nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S.

[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do ông S là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần H S. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 278/2023/DS-ST ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C.

Tuyên xử 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần H S đối với anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 700m2 đất và công nhận quyền sở hữu nhà và cây trồng trên đất có diện tích 700m2 thuộc thửa số 190, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 1, xã T, thành phố C, tỉnh C . thuộc quyền sở hữu của ông S.

2. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Hùng S với anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y vô hiệu.

Ghi nhận sự thỏa thuận của ông Trần H S và anh Trần Quốc T, chị Trần Tú Y về việc anh T, chị Y trả cho ông S tổng số tiền 1.922.000.000 đồng (Một tỷ chín trăm hai mươi hai triệu đồng). Trong đó giá trị quyền sử dụng đất là 722.000.000 đồng, chi phí san lấp 400.000.000 đồng, giá trị căn nhà là 800.000.000 đồng.

Buộc ông Trần H S và những người trong gia đình ông S bà Quách Mỹ Q, anh Trần Quốc T, anh Trần Quốc T1, chị Trần Như K, chị Lê Thị Tuyết H phải di dời và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 954415, số vào sổ CS 00236, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 08/6/2017 cho anh Trần Quốc T và chị Trần Tú Y.

3. Về chi phí tố tụng khác: Buộc ông Trần Quốc T, bà Trần Tú Y trả cho ông Trần H S chi phí đo đạc số tiền là 6.306.660 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần H S được miễn án phí. Anh Trần Quốc T và chị Trần Tú Y phải chịu 69.660.000 đồng (chưa nộp).

5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần H S được miễn.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án số 57/2024/DS-PT

Số hiệu:57/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về