Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 59/2017/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 59/2017/LĐ-ST NGÀY 21/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG

Ngày 21 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2017/TLST–LĐ ngày 07 tháng 6 năm 2017 về việc “Tranh chấp lao động về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 452/2017/QĐXX-ST ngày 28 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1949 Địa chỉ: 16/3A, đường PVH, Khu phố 5, phường TTN, Quận X, Thành phố H.

(Có mặt) 2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ BV Th Tr Địa chỉ: 91/19A, đường ĐB, Khu phố 7, phường TCH, Quận X, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Đặng Thị Lệ M, sinh năm: 1986, trú tại: 91/19A, đường ĐB, Khu phố 7, phường TCH, Quận X, Thành phố H là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Giấy ủy quyền không số ngày 28/11/2017).

(Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các bên đương sự trình bày:

* Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Trong đơn khởi kiện ngày 01 tháng 6 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn trình bày:

Ông Nguyễn Văn H làm việc cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ BV Th Tr (Sau đây gọi tắt là công ty) từ ngày 07/5/2016, mức lương là 4.200.000 đồng. Ngày 23/4/2017, ông H làm đơn xin nghỉ việc từ ngày 24/5/2017.

Nay Ông Nguyễn Văn H yêu cầu công ty trả cho ông tiền lương những ngày ông làm việc từ ngày 01/5/2017 đến hết ngày 23/5/2017, số tiền là 3.220.000 đồng.

* Về ý kiến, đề nghị của bị đơn:

Tại bản tự khai ngày 28 tháng 11 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện bị đơn trình bày:

Công ty không nhận được đơn xin nghỉ việc nào của Ông Nguyễn Văn H. Từ ngày 01/5/2017 đến 15/5/2017 ông H nghỉ ngang, phòng nhân sự kêu ông H lên làm việc thì ông H mới đi làm lại nhưng đến ngày 23/5/2017 thì nghỉ nay công ty không trả lương cho ông H.

Công ty xác định lương của ông H là 4.000.000 đồng, 200.000 đồng là phụ cấp chuyên cần. Do ông H nghỉ không báo và làm việc không đủ tháng nên ông H không được nhận phụ cấp chuyên cần.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận X tham gia phiên tòa có ý kiến như sau :

Về thủ tục tố tụng: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền. Việc tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Ngoài ra còn nhận xét về việc tham gia tố tụng của các đương sự. Viện kiểm sát không có kiến nghị gì về việc khắc phục vi phạm trong tố tụng.

Về nội dung: Hiện nay bị đơn chưa trả lương những ngày làm việc tháng 5/2017 cho nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Giữa nguyên đơn và bị đơn có quan hệ lao động, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lương còn thiếu nên đây là "Tranh chấp lao động về tiền lương". Bị đơn có địa chỉ tại Quận X, Thành phố H. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H.

[2] Về điều kiện khởi kiện:

Tranh chấp nói trên đã thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo "Biên bản Hòa giải tranh chấp lao động ngày 31/5/2017" của Phòng Lao động - Thương binh và Xã Hội Quận X. Nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 201 của Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về yêu cầu của các đương sự:

Công ty xác nhận hiện nay công ty có giữ lương tháng 5/2017 của Ông Nguyễn Văn H do ông H nghỉ ngang không thông báo trước gây thiệt hại cho công ty. Công ty không chứng minh công ty bị thiệt hại gì, thiệt hại đó có thuộc trường hợp được khấu trừ tiền lương theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật lao động năm 2012 hay không. Lý do công ty không trả lương tháng 5/2017 cho ông H là không đúng quy định pháp luật bởi theo quy định tại Điều 96 của Bộ luật lao động năm 2012 thì "Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn". Từ nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền lương tháng 5/2017.

Bảng lương tháng 5/2016 và tháng 7/2016 do nguyên đơn cung cấp thể hiện lương cơ bản của nguyên đơn là 3.700.000 đồng/tháng. Tại khoản 1 Điều 3 của "Hợp đồng thời vụ" ký kết ngày 05/5/2016 do bị đơn cung cấp thể hiện mức lương chính của nguyên đơn từ 3.700.000 – 4.500.000 đồng/tháng. Nguyên đơn cho rằng mức lương là 4.200.000 đồng/tháng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Ngược lại, bị đơn thừa nhận mức lương của nguyên đơn là 4.000.000 đồng/tháng, phụ cấp chuyên cần 200.000 đồng/tháng. Lời thừa nhận của bị đơn là chứng cứ không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Văn H không làm đủ tháng 5/2017 nên không được hưởng phụ cấp chuyên cần. Như vậy có cơ sở xác định mức lương của ông H tháng 5/2017 là 4.000.000 đồng/tháng.

Nguyên đơn trình bày số ngày làm việc cho công ty tháng 5/2017 là 23 ngày tính từ ngày 01/5/2017 đến hết ngày 23/5/2017.

Tại phiên tòa, bị đơn trình bày, bảng chấm công ông H giữ không giao lại cho công ty. Bị đơn xuất trình sổ ca trực thể hiện ông H ký tên từ ngày 15/5/2017 đến 23/5/2017. Công ty xuất trình biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 24/5/2017 nhưng không có biên bản xử lý kỷ luật lao động từ ngày 01/5/2017 đến 15/5/2017, đồng thời thông báo ngày 30/5/2017 về việc cho thôi việc cũng thể hiện lý do cho thôi việc là ông H bỏ việc từ ngày 24/5/2017. Từ những phân tích trên, có cơ sở bác ý kiến của bị đơn, chấp nhận ý kiến của nguyên đơn, xác định nguyên đơn đã làm việc 23 ngày trong tháng 5/2017.

Tại khoản 1 Điều 3 của Hợp đồng thời vụ cũng ghi chế độ nghỉ theo luật lao động. Như vậy, theo quy định tại Điều 110 của Bộ luật lao động năm 2012, "Người lao động được nghỉ tính bình quân 01 tháng ít nhất 04 ngày", xác định 01 tháng có 26 ngày làm việc. Số tiền lương tháng 5/2017 là : 4.000.000 đồng :

26 ngày x 23 ngày = 3.538.462 đồng. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 3.220.000 đồng tiền lương tháng 5/2017 là không vượt quá quy định nên chấp nhận. Buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền lương tháng 5/2017 là 3.220.000 đồng.

[5] Về án phí lao động sơ thẩm:

Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Án phí là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 96, Điều 110, khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Lao động năm 2012;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào các điều 2, 6, 7, 9, 30 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008,

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ BV Th Tr phải trả 3.220.000 (Ba triệu hai trăm hai mươi ngàn) đồng lương tháng 5/2017 cho Ông Nguyễn Văn H.

Kể từ ngày Ông Nguyễn Văn H có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nói trên, hàng tháng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ BV Th Tr còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí lao động sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ BV Th Tr chịu.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 59/2017/LĐ-ST

Số hiệu:59/2017/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:21/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về