TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 53/2018/LĐ-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
Ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2018/TLST–LĐ ngày 01 tháng 02 năm 2018 về việc “Tranh chấp lao động về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 241/2018/QĐXX-ST ngày 03 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1996 Địa chỉ thường trú: Ấp 9A, xã TH, huyện AM, tỉnh Kiên Giang.
Địa chỉ tạm trú: Nhà không số, Tổ 1, xã ĐT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có đơn xin vắng mặt)
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG Địa chỉ: Số 01, lô C, cụm Công nghiệp QTr, phường HT, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm: 1969, Chủ tịch hội đồng quản trị công ty, nơi làm việc: Số 01, lô C, cụm Công nghiệp QTr, phường HT, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo pháp luật của bị đơn.
(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các bên đương sự trình bày:
* Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 01 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Ông Nguyễn Văn L làm việc cho Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG (Sau đây gọi tắt là công ty) từ tháng 6/2017. Hai bên thỏa thuận miệng thử việc 01 tháng sẽ ký hợp đồng lao động 01 năm. Hàng tháng ông L được lãnh lương 02 lần. Tổng lương tháng 6/2017 là 7.000.000 đồng, tháng 7/2017 là 8.000.000 đồng. Ngày 24/8/2017, ông L bị máy cán cao su cán vào tay và được các công nhân đưa vào bệnh viện Chợ Rẫy điều trị, sau đó chuyển đến bệnh việc Chỉnh hình và Phục hồi Chức năng Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến ngày xảy ra tai nạn, ông vẫn chưa nhận được bản hợp đồng lao động.
Ông L có tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện nên khi bị tai nạn, ông được bảo hiểm chi trả một phần. Phần chi phí điều trị còn lại ông phải tự mình bỏ ra chi trả. Từ khi bị tai nạn đến nay công ty cũng không liên lạc để bồi thường cho ông.
này.
Do công ty đã trả tiền lương tháng 8/2017 cho ông L nên ông rút yêu cầu Ông L yêu cầu công ty bồi thường tai nạn do lao động gồm các khoản sau:
1. Trả tiền lương cho ông từ tháng 9/2017 đến ngày hết hạn hợp đồng tháng 9/2018 là 09 tháng theo mức lương 7.000.000 đồng/tháng, số tiền lương là 63.000.000 đồng.
2. Trả tiền viện phí do tai nạn lao động 45.806.279 đồng. Tổng cộng là 108.806.279 đồng.
* Về ý kiến, đề nghị của bị đơn:
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không cử đại diện đến tòa cũng không gởi văn bản trả lời về nội dung đơn kiện mặc dù đã được Tòa án nhân dân Quận 12 tống đạt thông báo thụ lý và triệu tập đến tòa để giải quyết vụ kiện.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 12 tham gia phiên tòa có ý kiến như sau :
Về thủ tục tố tụng: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền. Việc tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Ngoài ra còn nhận xét về việc tham gia tố tụng của các đương sự. Viện kiểm sát không có kiến nghị gì về việc khắc phục vi phạm trong tố tụng.
Về nội dung: Công ty không phản đối các yêu cầu của ông L nên xác định giữa ông L và công ty có quan hệ lao động, ông L đã bị tai nạn lao động và điều trị như trình bày và hồ sơ thể hiện. Đề nghị chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về tiền lương trong thời gian điều trị và hoàn trả chi phí điều trị theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Đây là "Tranh chấp lao động về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động".
Bị đơn có trụ sở tại Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về điều kiện khởi kiện:
Tranh chấp nói trên đã thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo "Biên bản Hòa giải tranh chấp lao động" ngày 01/02/2018 của Phòng Lao động - Thương binh và Xã Hội Quận 12. Nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 201 của Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[3] Về thủ tục tố tụng:
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không rõ lý do, theo quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[4] Về yêu cầu của các đương sự:
Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền lương tháng 8/2017. Ông Nguyễn Văn L được quyền khởi kiện lại đối với phần yêu cầu đã rút nếu đủ điều kiện và còn thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật và sẽ được giải quyết bằng vụ án khác. Ông L không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động:
Nguyên đơn trình bày về quan hệ lao động, mức lương, thời gian làm việc và tai nạn do lao động. Bị đơn đã được Tòa án thông báo nhưng không phản đối nên theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, chấp nhận những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản do nguyên đơn đưa ra. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18, điểm b khoản 1 Điều 22, Điều 142 của Bộ luật lao động năm 2012, có cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có quan hệ lao động từ tháng 6/2017, hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng, mức lương thử việc 7.000.000 đồng/tháng, lương chính thức 8.000.000 đồng/tháng, ngày 24/8/2017 nguyên đơn bị tai nạn trong khi lao động.
Tại Công văn số 720/BVCR-KHTH ngày 04/4/2018 của Bệnh viện Chợ Rẫy có xác định chi phí điều trị của Ông Nguyễn Văn L là 7.717.785 đồng. Bệnh việc Chợ Rẫy chuyển sang bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chuyển tuyến số 2170083928/2017/GCT ngày 26/8/2017. Tổng chi phí điều trị mà ông L phải trả tại bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Thành phố Hồ Chí Minh tính đến ngày xét xử, cụ thể: Tại "Bảng kê chi phí khám, chữa bệnh nội trú tổng hợp" ngày 03/01/2018 là 2.726.840 đồng, tại "Bảng kê chi phí khám, chữa bệnh nội trú tổng hợp" ngày 19/3/2018 là 2.547.994 đồng, "Bảng kê chi phí khám, chữa bệnh nội trú tổng hợp" ngày 02/10/2017 là 22.758.614 đồng, tại "Bảng kê chi phí khám, chữa bệnh nội trú tổng hợp" ngày 01/11/2017 là 10.055.046 đồng, tổng cộng là 38.088.494 đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 144 của Bộ luật lao động năm 2012, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn trả tiền chi phí điều trị cho nguyên đơn tổng cộng 45.806.279 đồng.
Trong thời gian điều trị bệnh, ông L phải nghỉ việc, theo quy định tại khoản 2 Điều 144 của Bộ luật lao động năm 2012, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn trả đủ tiền lương cho nguyên đơn, từ tháng 9/2017 đến ngày hết hạn hợp đồng tháng 9/2018 là 09 tháng theo mức lương 7.000.000 đồng/tháng, số tiền lương là 63.000.000 đồng.
[5] Về án phí lao động sơ thẩm:
Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, số tiền 45.806.279 đồng + 63.000.000 đồng = 108.806.279 đồng, án phí là 3% x 108.806.279 đồng = 3.264.188 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, các điểm a, b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 18, điểm b khoản 1 Điều 22, Điều 142, khoản 1 Điều 144, khoản 1 Điều 201, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Lao động năm 2012;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ vào các điều 2, 6, 7, 9, 30 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008,
1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của Ông Nguyễn Văn L về việc buộc Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG trả 8.000.000 (Tám triệu) đồng tiền lương tháng 8 năm 2017. Trong trường hợp ông L có tranh chấp đối với yêu cầu này thì có quyền khởi kiện lại nếu đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động:
2.1. Buộc Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG phải trả tiền lương trong thời gian Ông Nguyễn Văn L điều trị tai nạn do lao động phải nghỉ việc từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 9 năm 2018, số tiền lương là 63.000.000 (Sáu mươi ba triệu) đồng.
2.2. Buộc Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG phải hoàn trả tiền chi phí điều trị tai nạn do lao động mà Ông Nguyễn Văn L đã tự chi trả tính đến ngày xét xử là 45.806.279 (Bốn mươi lăm triệu tám trăm lẻ sáu ngàn hai trăm bảy mươi chín) đồng.
Kể từ ngày Ông Nguyễn Văn L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền nói trên, hàng tháng Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí lao động sơ thẩm:
3.1. Ông Nguyễn Văn L không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.
3.2. Công ty Cổ phần Vỏ xe Công nghiệp SG phải chịu án phí 3.264.188 (Ba triệu hai trăm sáu mươi bốn ngàn một trăm tám mươi tám) đồng.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp lao động bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động số 53/2018/LĐ-ST
Số hiệu: | 53/2018/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 26/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về