TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 09/2023/DS-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ TRANH CHẤP LẤN CHIẾM QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 11 tháng 8 năm 2023 tại Trụ S Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2023/TLST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2023 về việc: “Tranh chấp lấn chiếm quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2023 và thông báo mở lại phiên tòa số: 34/2023/TBMPT-DS ngày 01 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Tổng Công Ty Giấy Việt Nam;
Địa chỉ: 25A phố Lý Thường Kiệt, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Công Hoàng
- Quyền Tổng Giám đốc Người Đại diện theo ủy quyền khởi kiện và tham gia tố tụng:
1. Ông Dư Kim T - Phó Giám đốc phụ trách Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng, Tổng Công Ty Giấy Việt Nam;
Địa chỉ: Khu Đa Đu, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (có đơn xin vắng mặt) 2. Ông Nguyễn Khắc Long - Chuyên viên pháp chế, Tổng Công Ty Giấy Việt Nam.
Địa chỉ trụ S chính 25A phố Lý Thường Kiệt, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: Tổ 4 A, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; (vắng mặt).
Bị đơn: Ông Cầm Văn T, sinh năm 1966 Địa chỉ: Tổ 4, phố Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phùng Thị S - SN 1966 Địa chỉ: Tổ 4, phố Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án người đại diện cho nguyên đơn ông Dư Kim T trình bày:
Diện tích đất lâm nghiệp tại Lô số 9, khoảnh 6, đội 7 tại khu Đồi Dòng, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn là diện tích đất nằm trong toàn bộ diện tích 4.699,0ha đất được UBND tỉnh Phú Thọ giao cho Lâm trường Tam Thắng (Nay thuộc Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng) quản lý sử dụng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I800452 ngày 31/2/1998, thời hạn sử dụng đất là 50 năm.
Quá trình thực hiện năm 2006 Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng, Tổng Công Ty Giấy Việt Nam đã ký Hợp đồng giao khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy cả chu kỳ và tiêu thụ sản phẩm giai đoạn năm 2006 -2013 với ông Cầm Văn T, theo Hợp đồng số 52/HD-2006 ngày 01/7/2006; việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy của ông T được thực hiện trên diện tích đất của Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng quản lý, sử dụng tại đội 7 xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn. Năm 2015 khi rừng khai thác xong, Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng tiếp tục trồng lại rừng và đã ký Hợp đồng giao khoán, nhận khoán công đoạn trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy năm 2015 với ông Ngô Xuân T là Đội trưởng đội 7 xã Thục Luyện theo Hợp đồng số 08/HĐ-KT ngày 15/02/2015; việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy của ông T được thực hiện trên diện tích đất của Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng quản lý, sử dụng tại Lô số 9, khoảnh 6, tại đội 7 xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn diện tích là 2,5ha.
Đến cuối tháng 8/2022, Lô số 9 Khoảnh 6 tại đội 7 xã Thục Luyện được khai thác xong thì ngày 12 và ngày 13 tháng 9 năm 2022 ông Cầm Văn T đã tự ý tổ chức người lên cuốc hố trồng cây keo vào Lô đất này. Sau khi phát hiện sự việc Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng đã yêu cầu ông T dừng lại và phải trả lại diện tích đất này cho Công Ty, nhưng ông T không hợp tác. Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng đã nhiều lần có đơn đề nghị lên UBND xã Thục Luyện để giải quyết nhưng ông T không hợp tác.
Nay Công ty lâm nghiệp Tam Thắng đề nghị Tòa án buộc ông Cầm Văn T và những người có liên quan phải trả lại diện tích đất trồng rừng nguyên liệu giấy do ông T đã tự ý lấn chiếm, diện tích thực tế đo đạc là 27.255,3m2 đất tại Lô số 9, khoảnh 6, tại đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ cho Tổng Công Ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng để sử dụng. Nay ông T đề nghị Công ty bồi thường số tiền 200.000.000đ Công ty không đồng ý. Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng đồng ý hỗ trợ cho ông T số tiền từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ.
* Bị đơn ông Cầm Văn T trình bày: Gia đình ông T có thửa đất rừng khoảng hơn 2 ha tại đội 7 Khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, nguồn gốc đất là do gia đình ông khai hoang từ năm 1990, đến nay diện tích đất này chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi khai hoang gia đình ông đã sử dụng trồng cây Bạch đàn, đến năm 2000 thì khai thác. Năm 2006 ông T có ký Hợp đồng giao khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy cả chu kỳ và tiêu thụ sản phẩm giai đoạn từ năm 2006 - 2013 với Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng để trồng cây Keo trên diện tích đất mà ông đã khai hoang đến năm 2013 thì khai thác.
Năm 2015 ông T có trồng rừng thuê cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng thông qua ông Ngô Xuân T là Đội trưởng đội 7 xã Thục Luyện, đến năm 2022 rừng được khai thác. Tháng 9/2022 sau khi khai thác cây xong ông T đã đầu tư mua cây keo giống, phân bón trồng trên diện tích đất khoảng 2,5ha, số lượng cây đã trồng là 5.000 cây keo. Mục đích để phát triển kinh tế gia đình, cây trồng được hơn 01 năm tuổi và đang phát triển tốt. Nay Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng khởi kiện yêu cầu trả lại đất ông T đồng ý trả đất. Nhưng ông T đề nghị Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng bồi thường cho ông số là 200.000.000đ gồm các khoản như công khai hoang, công trồng, chăm sóc, phân bón.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phùng Thị S trình bày:
Gia đình bà S có thửa đất rừng khoảng hơn 2ha tại đội 7 Khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, nguồn gốc đất là do gia đình bà khai hoang từ năm 1990, đến nay chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình bà đã trồng cây Bạch đàn, đến năm 2000 khai thác. Năm 2006 gia đình bà có ký Hợp đồng giao khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy cả chu kỳ và tiêu thụ sản phẩm năm 2006 - 2013 với Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng để trồng cây Keo đến năm 2013 thì khai thác. Năm 2015 gia đình bà có trồng rừng thuê cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng thông qua ông Ngô Xuân T là Đội trưởng đội 7 xã Thục Luyện đến năm 2022 cây được khai thác. Tháng 9/2022, gia đình bà đã mua cây giống, phân bón và nhân công đã trồng cây Keo trên diện tích đất nêu trên, số lượng cây trồng là 5.000 cây trên diện tích đất khoảng 2,5ha để phát triển kinh tế gia đình, cây trồng từ năm 2022 đã được hơn 01 năm tuổi cây đang phát triển. Nay Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng khởi kiện yêu cầu trả lại đất bà đồng ý, nhưng Công ty phải bồi thường cho bà là 200.000.000đ gồm có công khai hoang, công trồng, chăm sóc, phân bón.
Quan điểm UBND xã Thục Luyện: Về việc tranh chấp đất giữa Công ty lâm nghiệp Tam Thắng và ông Cầm Văn T như sau:
Sau khi UBND xã Thục Luyện nhận được đơn báo cáo của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng về việc gia đình ông Cầm Văn T đang lấn chiếm trồng cây lâm nghiệp tại Lô số 9, khoảnh 6 diện tích 2,5 ha đất lâm nghiệp của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng có địa chỉ tại Suối Dòng, xã Thục Luyện. Ngày 16/9/2023 và ngày 21/9/2023 UBND xã Thục Luyện đã mời Công ty lâm nghiệp Tam Thắng và ông Cầm Văn T đến giải quyết, nhưng hai bên không thỏa thuận được, diện tích đất ông Cầm Văn T lấn chiếm trồng cây là đất của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng đã được UBND tỉnh Phú Thọ giao để trồng cây lâm nghiệp, đất này là thuộc quản lý của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng. UBND xã Thục Luyện không quản lý diện tích đất này. Nay hai bên có tranh chấp, UBND xã Thục Luyện đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của ông Ngô Xuân T: Năm 2015 ông Ngô Xuân T đã ký Hợp đồng số: 08/HĐKT ngày 15/02/2015, hợp đồng giao khoán, nhận khoán công đoạn trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy với Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng. Trong quá trình thi công ông T có thuê ông Cầm Văn T có địa chỉ ở tổ 4, phố Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn thi công các công đoạn trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng trên diện tích đất tại đội 7, Suối Dòng tại xã Thục Luyện thuộc đất của Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng, được Nhà nước giao cho quản lý, sử dụng tại Lô số 9, khoảnh 6, diện tích 2,5ha (Hợp đồng thuê miệng). Sau khi các công đoạn trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng thực hiện xong ông T đã thanh toán tiền công đầy đủ cho ông T.
*Ý kiến của Kiểm sát viên: Quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng. Thẩm phán đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 73 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a,c Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 163, 164, 357 Bộ luật dân sự năm 2015
Căn cứ Khoản 5 Điều 166, Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013
Căn cứ Nghị quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu. Nộp, Quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buộc ông Cầm Văn T và những người liên quan phải tháo dỡ, di rời 201m rào cọc tre không có dây thép gai và 607,7m rào cọc tre có 03 sợi dây thép gai để trả lại cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng diện tích 27.255,3m2 đất lâm nghiệp. Trong đó có 26.522,7m2 đất đã trồng cây keo và diện tích 732,6m2 đất là đường đi tại Lô số 9, khoảnh 6, tại đội 7 Khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ để sử dụng.
Giao cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có quyền quản lý, sử dụng diện tích 27.255,3m2. Trong đó có 26.522,7m2 đất đã trồng cây keo và diện tích 732,6m2 đất đường đi tại Lô số 9, khoảnh 6, tại Đội 7 khu vực Đồi Dòng, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có trách nhiệm thanh toán ông T và bà S tiền công trồng, tiền cây keo giống, tiền phân bón, tiền công chăm sóc cây trồng. Theo kết quả của Hội đồng định giá cây keo trồng năm 2022 là 50.654.000đ;cây keo trồng năm 2023 là 10.150.000đ có giá trị là 60.804.000đ. Tuy nhiên ông T có lỗi nên phải chịu một phần, số tiền ông T được thanh toán 2/3 số tiền 60.804.000đ = 40.536.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm ba mươi sáu ngàn đồng).
Về chi phí tố tụng: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Buộc ông Cầm Văn T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, lệ phí định giá tài sản.
Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Bị đơn ông Cầm Văn T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ S xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ Hội đồng xét xử nhận định.
[1]. Về tố tụng dân sự Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Thấy rằng nguyên đơn, bị đơn và tài sản tranh chấp trong vụ án là 27.255,3m2 đất lâm nghiệp đều ở. Như vậy HĐXX xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất ” vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, theo quy định tại Khoản 9, Điều 26, Khoản 1 Điều 35, Điều 39, điểm c Khoản 2 Điều 203 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Các đương sự trong vụ án: Nguyên đơn đã chấp hành, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 70, Điều 71 - BLTTDS.
Bị đơn ông T và người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan là bà S không chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 70, Điều 72, Điều 73 – BLTTDS.
[2]. Về nội dung vụ án: Lâm trường Tam Thắng. Nay chuyển đổi là Công ty lâm nghiệp Tam Thắng được thành lập từ năm 1961 và được giao diện tích đất để trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng tại một số xã của huyện Thanh Sơn, năm 1998 được UBND tỉnh Phú Thọ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I800452 cho Lâm trường Tam Thắng được quyền sử dụng diện tích 4.699,0ha đất trong khu vực huyện Thanh Sơn tại các xã Cự Đồng, Võ Miếu, Tất Thắng, Tân Lập, Hương Cần, Thục Luyện, huyện Thanh Sơn. Thời hạn sử dụng đất là 50 năm, tính từ ngày 01/01/1996. Mục đích sử dụng: Lâm nghiệp là 4.645,5 m2; đất chuyên dùng là 29,7m2; đất khác là 23,8m2, cấp ngày 31/2/1998.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện thanh Sơn đã tiến hành xác minh tại UBND xã Thục Luyện được biết phần diện tích đất đang xảy ra tranh chấp giữa Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng với ông Cầm Văn T là đất của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng được UBND tỉnh Phú Thọ giao để trồng rừng, không thuộc quyền quản lý của UBND xã Thục Luyện. Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng và ông Cầm Văn T đều khảng định. Năm 2006 Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng trực thuộc Tổng Công Ty Giấy Việt Nam đã ký Hợp đồng số 52/HĐ/ 2006 ngày 01/7/2006 với ông Cầm Văn T về việc giao khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy cả chu kỳ và tiêu thụ sản phẩm từ năm 2006 - 2013 được thực hiện trên diện tích đất của Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng tại Đội 7 xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, tuân theo quy định của pháp luật.
Năm 2015 sau khi rừng được khai thác xong, Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng tiếp tục trồng lại rừng và đã ký Hợp đồng với ông Ngô Xuân T là Đội trưởng đội 7 công tác tại Công ty lâm nghiệp Tam Thắng có trụ S trên địa bàn xã Thục Luyện, theo Hợp đồng số 08/HĐ-KT ngày 15/02/2015 về việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng nguyên liệu giấy, ông T được thực hiện trồng rừng trên diện tích 2,5 ha giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2022 tại Lô 9 Khoảnh 6 đội 7 xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn. Đến cuối tháng 8/2022 diện tích 2,5 ha rừng được khai thác xong. Công ty lâm nghiệp Tam Thắng chưa kịp triển khai kế hoạch trồng mới, ngày 12/9/2022 và ngày 13/9/2022 ông T đã tự ý tổ chức người lên phát thực bì, cuốc hố để trồng khoảng 5.000 cây keo và rào dây thép gai vào toàn bộ diện tích 27.255,3 m2 đất của Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng thuộc lô 9 khoảnh 6, đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, sau khi Công ty phát hiện ông T trồng cây keo trái phép trên đất do Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng được giao, nên Công ty đã yêu cầu ông T dừng việc trồng cây lại để giải quyết, nhưng ông T không chấp hành, sau đó Công ty đã báo cáo với UBND xã Thục Luyện được giải quyết vào các ngày 16/9/2022 và ngày 21/9/2022 nhưng không có kết quả, xét về lỗi hoàn toàn thuộc về ông T, do vậy cần buộc ông Cầm Văn T và bà Phùng Thị S phải tháo dỡ, di rời 201m rào cọc tre không có dây thép gai và 607,7m rào cọc tre có 03 sợi dây thép gai để trả lại cho Tổng công ty giấy Việt Nam – Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng diện tích 27.255,3m2 đất tại lô 9, khoảnh 6, đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là có căn cứ.
Bị đơn ông Cầm Văn T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Phùng Thị S đều trình bày nguồn gốc đất là do gia đình ông, bà khai hoang từ năm 1990, đến nay chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình ông bà đã trồng cây Bạch đàn, đến năm 2000 khai thác, trong bản tự khai, biên bản hòa giải ông T xác định diện tích 27.255,3m2 tại lô 9, khoảnh 6, Đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ ông bà đang trồng cây keo là đất của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng, nên ông T, bà S nhất trí trả lại toàn bộ diện tích đất trên theo yêu cầu của Công ty, nhưng ông T, bà S yêu cầu Công ty lâm nghiệp Tam Thắng phải thanh toán cho ông, bà tiền cây giống, tiền công trồng, tiền phân bón, tiền công chăm sóc số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).
Như vậy có thể khẳng định ông Cầm Văn T và bà Phùng Thị S đang lấn chiếm, sử dụng diện tích 27.255,3m2. Trong đó có 26.552,7m2 đất đã trồng cây keo và diện tích 732,6 m2 là đường đi do Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng đã khai thác để phục vụ cho việc vận chuyển phục vụ sản xuất cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng tại lô 9, khoảnh 6, khu Đội 7 Khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thuộc quyền quản lý, sử dụng của Tổng Công ty giấy Việt Nam – Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng. Đối với diện tích 732,6 m2 nằm trong 27.255,3m2 hai bên không tranh chấp.
Bản trích đo địa chính thực địa hiện trạng sử dụng đất ngày 25/5/2023 của Văn phòng quản lý đất đai huyện Thanh Sơn có diện tích như sau:
Chỉ giới từ số 01 đến số 25 có diện tích là 27.255,3m2 Chỉ giới số 26, 39, 40 đến số 61 và từ số 37, 36,35,34,32,21,30,29,28,27,26 có diện tích 732,6 m2 là đường đi nằm trong 27.255,3m2 (Có sơ đồ kèm theo).
Về số cây keo ông T và bà S trồng trên đất Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng đề nghị ông T và những người liên quan phải di chuyển toàn bộ cây đi trồng chỗ khác để trả lại đất cho Công ty Tam Thắng thấy rằng: Toàn bộ số cây keo ông T, bà S đã trồng trên diện tích 26.552,7m2 đất từ tháng 9/2022 và số cây trồng bổ sung năm 2023 vẫn đang phát triển bình thường, nếu buộc ông T, bà S phải chuyển đi trồng chỗ khác hoặc chặt bỏ để trả lại đất cho Công ty Tam Thắng là không hợp lý, như vậy sẽ gây thiệt hại về kinh tế cho ông T, bà S mà còn gây thiệt hại cho xã hội, vì vậy cần giao cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có quyền S hữu, sử dụng toàn bộ số cây keo là (2.200 cây) do ông Cầm Văn T và bà Phùng Thị S trồng từ tháng 9/2022 và năm 2023 trên diện tích 26.552,7m2 đất tại lô 9, khoảnh 6, khu Đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện. Tổng Công ty giấy Việt Nam – Công ty lâm nghiệp Tam Thắng có trách nhiệm thanh toán cho ông T tiền cây giống, tiền công trồng, tiền mua phân bón, tiền công chăm sóc theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa ông Dư Kim T đại diện theo ủy quyền cho Tổng Công ty giấy Việt Nam có đơn xin xét xử vắng mặt, nhưng vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết theo đơn khởi kiện có căn cứ chấp nhận.
[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty giấy Việt Nam – Công ty lâm nghiệp Tam Thắng.
Buộc ông Cầm Văn T và những người liên quan phải tháo dỡ, di rời 201m rào cọc tre không có dây thép gai và 607,7m rào cọc tre có 03 sợi dây thép gai để trả lại cho Tổng công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng diện tích 27.255,3m2 đất lâm nghiệp. Trong đó có 26.522,7m2 đất đã trồng cây keo và diện tích 732,6m2 đất đường đi tại Lô số 9, khoảnh 6, tại đội 7 Khu vực đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ để quản lý, sử dụng.
[4]. Về giá trị tài sản tranh chấp: Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh Sơn ngày 19/6/2023, số cây keo ông T, bà S trồng trên 26.552,7m2 (nằm trong diện tích 27.255,3m2) đất tại lô 9 khoảnh cụ thể:
Diện tích đất 27.255,3m2 trị giá = 277.973.500đ; cây keo trồng năm 2022 trị giá = 50.654.000đ; cây keo trồng năm 2023 trị giá = 10.150.000đ; Cọc rào bằng tre không có dây thép gai có chiều dài 201,0m + rào bằng cọc có dây thép gai có chiều dài 607,7m x 3 sợi = 1.823,1m có trị giá = 6.804.000đ. Tổng giá trị là: 345.581.500đ (Ba trăm bốn lăm triệu năm trăm tám mốt ngàn năm trăm đồng).
(Kèm theo biên bản định giá).
Xét về lỗi thấy rằng: Ông Cầm Văn T và bà Phùng Thị S đang lấn chiếm, sử dụng trái phép diện tích 27.255,3m2 đất tại lô 9, khoảnh 6, khu Đội 7 Khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là của Công ty lâm nghiệp Tam Thắng. Tại thời điểm ông T dọn thực bì, cuốc hố trồng cây đã được Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng ngăn cản và UBND xã Thục Luyện giải quyết, nhưng ông T vẫn cố tình thực hiện đã gây khó khăn cho việc sản xuất trồng rừng của Công ty, quá trình giải quyết ông T và bà S đồng ý trả lại toàn bộ diện tích đất cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng, nhưng đề nghị Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng phải thanh toán cho ông tiền công khai phá đất, tiền cây giống, công trồng, phân bón, công chăm sóc số tiền là 200.000.000đ, do ông T là người có lỗi, nên chỉ chấp nhận thanh toán 2/3 giá trị cây keo theo kết quả định giá = 60.804.000đ là phù hợp. Do đó Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có trách nhiệm thanh toán cho ông Cầm Văn T số tiền = 40.536.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm ba sáu ngàn đồng).
Đối với diện tích 732,6m2 đường đi có giá trị là 7.169.800đ (Bảy triệu một trăm sáu chín ngàn tám trăm đồng); rào cọc tre không dây thép gai có chiều dài là 201m và rào cọc tre có dây thép gai chiều dài dây thép gai là 607,7m x 03 sợi = 1.823,1m có giá trị là 6.804.000đ (Sáu triệu tám trăm linh bốn ngàn đồng chẵn) phải tháo dỡ di dời, nên bị đơn không phải chịu án phí.
[5]. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, lệ phí đo đạc là 2.483.683đ lệ phí định giá tài sản là 1.000.000đ. Tổng số tiền đã chi phí là 3.483.683đ (Ba triệu bốn trăm tám ba ngàn sáu trăm tám ba đồng). Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận. Bị đơn phải chịu toàn bộ tiền chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
Buộc ông Cầm Văn T phải chịu số tiền 3.483.683đ (Ba triệu bốn trăm tám ba ngàn sáu trăm tám ba đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.
Xác nhận Công ty lâm nghiệp Tam Thắng đã nộp 8.000.000đ (Tám triệu đồng) tạm ứng chi phí tố tụng; chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.
Buộc ông Cầm Văn T phải thanh toán lại cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng số tiền là 3.483.683đ (Ba triệu bốn trăm tám ba ngàn đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.
Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn đã trả lại cho Công ty lâm nghiệp Tam Thắng số tiền 4.516.317đ (Bốn triệu năm trăm mười sáu ngàn ba trăm mười bảy đồng) tiền tạm ứng chi phí tố tụng còn thừa.
[6]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí.
Ông Cầm Văn T phải chịu số tiền là 15.567.000 (Mười lăm triệu năm trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (tròn số).
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Khoản 9, Điều 26, điểm a, Khoản 1, Điều 35, điểm a, c Khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015
Căn cứ các Điều 163, Điều 164, Khoản 1, Điều 166, Điều 579, Điều 583 Bộ luật dân sự 2015
Căn cứ các Điều 166, Điều 173, Khoản 1 Điều 203 – Luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 26, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu. Nộp, Quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng.
Buộc ông Cầm Văn T và những người liên quan phải phải tháo dỡ, di rời toàn bộ rào bằng cọc tre không có dây thép gai có chiều cao từ 0,5m đến 1m mật độ cọc tre từ 50cm đến 100cm có chiều dài là 201m. Rào cọc tre cao từ 1m đến 1,3m, mật độ cọc tre từ 50cm đến 80cm; chiều dài dây thép gai 607,7m x 03 sợi = 1.823,1m để trả lại cho Tổng công ty giấy Việt Nam – Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng diện tích 27.255,3m2 đất tại lô 9, khoảnh 6, Đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Theo bản trích đo hiện trạng sử dụng đất gồm có các chỉ giới như sau:
Chỉ giới từ số 01 đến số 25 có diện tích là 27.255,3m2 Chỉ giới số 26, 39, 40 đến số 61 và từ số 37, 36,35,34,32,31,30,29,28,27,26 có diện tích 732,6 m2 là đường đi nằm trong 27.255,3m2.(kèm theo bản trích đo).
Giao cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có quyền quản lý, S hữu, sử dụng toàn bộ số cây keo do ông Cầm Văn T và bà Phùng Thị S trồng trên diện tích 26.552,7m2 (nằm trong tổng diện tích 27.255,3 m2) tại lô 9, khoảnh 6, Đội 7 khu vực Đồi Dòng thuộc địa bàn xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng có trách nhiệm thanh toán cho ông Cầm Văn T tiền cây keo giống, tiền công trồng, tiền phân bón, công chăm sóc là 40.536.000đ (Bốn mươi triệu năm trăm ba sáu ngàn đồng) (Kèm theo biên bản định giá).
2. Về chi phí tố tụng: Ông Cầm Văn T phải thanh toán lại cho Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng số tiền 3.483.683đ (Ba triệu bốn trăm tám ba ngàn đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.
3. VÒ ¸n phÝ: Ông Cầm Văn T phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm là 15.567.000 (Mười lăm triệu năm trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (tròn số).
Trả lại cho Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng toàn bộ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là: 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm số 0007082 ngày 17/02/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền trên thì ngoài số tiền phải trả, người phải thi hành án còn phải trả lãi cho đến khi thi hành án xong đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sư 2015.
3.Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ S UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
“ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 luật thi hành án”.
Bản án về tranh chấp lấn chiếm quyền sử dụng đất số 09/2023/DS-ST
Số hiệu: | 09/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về