TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 26/2022/DS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 48/2022/TLST-DS ngày 08 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31a/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23a/2022/QĐST-DS ngày 14/9/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị BT, sinh năm 1967; Địa chỉ: Thôn HT, xã H, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk – (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Ông Cao Văn T và bà Mai Thị T - (vắng mặt lần 2 không có lý do).
Địa chỉ: Thôn HT, xã H, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 28/3/2021 và quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị BT trình bày:
Do có quan hệ quen biết với ông Cao Văn T và bà Mai Thị T, nên vào năm 2017 ông T và bà T có vay của tôi số tiền 38.000.000 đồng để đổ đất sửa chữa nhà ở của gia đình và hẹn trả cho gia đình tôi trong năm 2017. Tuy nhiên, đến năm 2018 ông T và bà T không trả nên vào ngày 27/8/2018, bà Mai Thị T trực tiếp viết giấy cam kết vay mượn tiền với tôi và hẹn sẽ trả cho tôi trong thời gian 03 tháng.
Đến hẹn như cam kết, ông T, bà T vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy tôi làm đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải trả cho tôi 38.000.000 đồng (Ba mươi tám triệu đồng) và không yêu cầu tính lãi suất kể từ ngày vay cho đến nay.
*Bị đơn ông Cao Văn T và bà Mai Thị T: Tòa án đã triệu tập nhiều lần, nhưng ông T, bà T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng để xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.
*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin phát biểu ý kiến:
Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, thụ lý vụ án về quan hệ pháp luật “Tranh chấp kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị BT, bị đơn ông Cao Văn T và bà Mai Thị T là đúng quy định của pháp luật; Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã áp dụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hòa giải và chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã áp dụng đúng quy định về trình tự, thủ tục của phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung: Áp dụng Điều 274, 275, 463 và 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị BT.
Buộc ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị BT số tiền 38.000.000 đồng (ba mươi tám triệu đồng).
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị BT khởi kiện, yêu cầu ông Cao Văn T và bà Mai Thị T có nghĩa vụ trả cho bà BT số tiền 38.000.000 đồng đã vay ngày 27/8/2018. Do thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay đã hết, nên xác định đây là quan hệ tranh chấp kiện đòi lại tài sản do người khác chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã H, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin. Trước ngày mở phiên tòa, bà Nguyễn Thị BT có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 3, Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 và điểm a, khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết và xét xử vắng mặt nguyên đơn là đúng với quy định của pháp luật.
Xét thấy, bị đơn ông Cao Văn T và bà Mai Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp: Trên cơ sở lời trình bày của đương sự cũng như qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bà Nguyễn Thị BT là chỗ quen biết với ông Cao Văn T và bà Mai Thị T. Vào năm 2017 ông T và bà T có vay của bà BT số tiền 38.000.000 đồng để đổ đất sửa chữa nhà ở của gia đình và hẹn trả cho bà BT trong năm 2017. Tuy nhiên, đến năm 2018 ông T và bà T vẫn không chịu trả tiền nên vào ngày 27/8/2018, bà BT yêu cầu bà Mai Thị T trực tiếp viết giấy cam kết vay mượn của bà Nguyễn Thị BT số tiền 38.000.000 đồng và hẹn sẽ trả cho bà BT trong thời gian sớm nhất. Đến hẹn như cam kết, ông T, bà T vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà BT Bà Nguyễn Thị BT cũng đã xuất trình chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện là: 01 giấy cam kết vay (mượn) tiền mặt lập ngày 27/8/2018, ghi tên người vay tiền là bà Mai Thị T, số tiền vay là 38.000.000 (ba mươi tám triệu) đồng, nhưng không ghi lãi suất trong giấy vay tiền (có văn bản gốc lưu trong hồ sơ vụ án).
Trong quá trình sử dụng tiền vay, ông Cao Văn T và bà Mai Thị T chưa trả được khoản tiền vay gốc và lãi suất cho bà Nguyễn Thị BT. Do ông Cao Văn T và bà Mai Thị T không đến Tòa án để làm việc, nên không có chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, vì vậy Tòa án tiến hành trưng cầu giám định chữ ký và chữ viết của bà Mai Thị Tươi trong giấy vay tiền, để có căn cứ buộc vợ chồng ông Cao Văn T và bà Mai Thị T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị BT số tiền đã vay. Tại bản kết luận giám định số 732/KL-KTHS, ngày 23/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký dạng chữ viết “Tươi” trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký dạng chữ viết “Tươi” trên mẫu so sánh ký hiệu M3 đến M6 là do cùng một người viết ra.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy, việc các bên thiết lập quan hệ hợp đồng vay tài sản (tiền) là hoàn toàn tự nguyện và đúng các quy định pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nay ông Cao Văn T và bà Mai Thị T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị BT. Buộc ông Cao Văn T và bà Mai Thị T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị BT số tiền vay 38.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015.
Về lãi suất: Tại các buổi làm việc, hòa giải bà Nguyễn Thị BT không yêu cầu vợ chồng ông Cao Văn T và bà Mai Thị T trả tiền lãi đối với số tiền vay là 38.000.000 đồng nên không đặt ra để giải quyết.
[4] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải chịu chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 4.080.000 (bốn triệu, không trăm tám mươi ngàn) đồng. Bà Nguyễn Thị BT được nhận lại 4.080.000 (bốn triệu, không trăm tám mươi ngàn) đồng sau khi thu được của ông Cao Văn T và bà Mai Thị T.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 274, 275, 463 và 466 Bộ luật Dân sự 2015.
-Căn cứ khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử
Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị BT.
1. Buộc ông Cao Văn T và bà Mai Thị T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị BT số tiền 38.000.000 đồng (ba mươi tám triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án tại thời điểm thanh toán.
2. Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải chịu chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 4.080.000 (bốn triệu, không trăm tám mươi ngàn) đồng. Bà Nguyễn Thị BT được nhận lại 4.080.000 (bốn triệu, không trăm tám mươi ngàn) đồng sau khi thu được của ông Cao Văn T và bà Mai Thị T.
3. Về án phí: Ông Cao Văn T và bà Mai Thị T phải nộp 1.900.000 đồng (một triệu, chín trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị BT không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại số tiền 3.707.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số 0001807 ngày 17/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp kiện đòi tài sản số 26/2022/DS-ST
Số hiệu: | 26/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về