TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH O, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 25/2023/DS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh O, thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 40/2022/TLST - DS ngày 23 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp kiện đòi tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2023/QĐDS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959 Trú tại: Số 50, khu Man B, pH Phú L, quận Hà Đ, Hà Nội.
Đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H: Bà Vũ Thị Mai Anh, sinh năm 2001 Địa chỉ: Văn phòng luật sư N, số 162A, ngõ 193. Đường P, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
- Bị đơn: Công ty TNHH H Địa chỉ: Cụm công nghiệp Thanh O, xã Bích H, huyện Thanh O, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Bà Ngô Thu H – Giám đốc công ty (Tại phiên tòa: bà H, và Vũ Thị Mai Anh có mặt; Bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu khác nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 18/01/2011, Công ty TNHH H đã ký Quyết định số 08/QĐ-HĐ giao cho bà sử dụng 623,1m2 đất trên tổng số 15.000m2 để làm nhà xưởng xây dụng, thời hạn sử dụng đất từ 19/01/2010 đến 02/12/2053. Giữa bà và Công ty H đã ký 01 Hợp đồng thuê đất nhưng bà đã để thất lạc hợp đồng. Bà đã thanh toán trước 01 lần cho Công ty H số tiền 3.032.400.000 đồng (ba tỷ không tăm ba mươi hai triệu bốn trăm nghìn đồng) đối với 43 năm thuê còn lại theo thời hạn giao đất của UBND tỉnh Hà Tây giao cho Công ty H. Sau khi ký Hợp đồng thuê nhà xưởng và thanh toán trước đủ số tiền 3.032.400.000 đồng cho Công ty H, hai bên đã tiến hành nhận mặt bằng, thi công xây dựng các hạng mục bên trong nhà xưởng gồm: nhà điều hanh và các hạng mục khác để hoạt động sản xuất, kinh doanh cho đến nay. Trên thực tế, Công ty Hưng Đông vẫn thu tiền thuê đất của bà ngoài khoản tiền 3.032.400.000 đồng trên. Đến nay, Công ty H đã thu của bà 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng).
Cuối tháng 12/2018, bà nhận được Thông báo số 02/2018/TB-HĐ của Công ty H về việc đơn phương “Chấm dứt Quyết định 08/QĐ-HĐ ngày 18/01/2011 về việc giao 623,1m2 đất để làm nhà xưởng sản xuất cơ khí” với lý do bị cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp kê biên, xử lý tài sản. Công ty H sẽ thực hiện việc giải quyết quyền lợi cho bà bằng cách thanh toán lại cho bà số tiền 2.374.788.000 đồng (Hai tỷ ba trăm bảy mươi tư triệu bảy trăm tám mươi tám nghìn đồng).
Nay bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền 2.500.000.000 đồng, như đã thỏa thuận tại biên bản thống nhất số: 08/2019 ngày 03/6/2019 của Công ty H Đông và bồi tH tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán khoản bồi tH 2.500.000.000 đồng tính từ ngày 03/6/2019 cho đến thời điểm Công ty H trả đủ cho bà số tiền 2.500.000.000 đồng.
Bị đơn là Công ty TNHH H: Từ khi thu lý vụ án, Tòa án đã tiền hành tống đạt các văn bản tố tụng cho Công ty H, niêm yết tại địa phương nơi có trụ sở của Công ty nhưng vẫn không nhận được ý kiến phản hồi của Công ty đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Công ty H tiếp tục thanh toán cho bà số tiền 2.500.000.000 đồng, tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán khoản bồi tH này. Đây là tranh chấp về dân sự, cụ thể là “Tranh chấp kiện đòi tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là Công ty TNHH H có địa chỉ tại Cụm công nghiệp Thanh O, xã Bích Hòa, huyện Thanh O, thành phố Hà Nội nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh O, thành phố Hà Nội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thủ tục tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng Thông báo thụ lý, Giấy triệu tập, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập đến phiên tòa nhưng bị đơn là Công ty H không có phản hồi và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng, nên được coi là từ bỏ quyền cung cấp chứng cứ, quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[1.3] Về pháp luật áp dụng: Công ty H đã ký Quyết định số 08/QĐ- HĐ về việc giao đất cho bà H kể từ ngày 19/01/2010. Tuy nhiên giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, nên cần áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 2015 để giải quyết vụ án.
[2] Xét về nội dung:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện:
Theo điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Do vậy, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015. Ngày 17/12/2018, Công ty H đã ra Thông báo số 02/2018/TB-HĐ về việc chấm dứt giao 623,1m2 đất để làm nhà xưởng cơ khí cho bà H. Tính đến thời điểm bà H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là ngày 15/12/2020 thì vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
[2.2] Đối với Hợp đồng thuê đất giữa nguyên đơn là bà H và bị đơn là Công ty H, bà H trình bày bà đã để thất lạc Hợp đồng thuê đất. Tuy nhiên, căn cứ vào Quyết định số 08/QĐ-HĐ ngày 18/01/2011 (BL 14), Thông báo số 02/2018/TB-HĐ ngày 17/12/2018 (BL 13), việc thuê 623,1m2 đất để làm nhà xưởng cơ khí giữa bà H và Công ty H là có tồn tại trên thực tế, bà H đã thanh toán cho Công ty H số tiền 3.032.400.00 đồng để thuê diện tích đất trên trong thời hạn 43 năm (kể từ ngày 19/01/2010 đến ngày 02/12/2053).
[2.3] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Xét Thông báo số 02/2018/TB-HĐ ngày 17/12/2018, Công ty H đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê đất với bà H với lý do là: “…Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh O sẽ tiến hành cưỡng chế đối với Công ty TNHH H (Đ/c: Cụm công nghiệp Bích Hòa, huyện Thanh O) bằng biện pháp kê biên, xử lý tài sản bao gồm: Toàn bộ nhà xưởng sản xuất, nhà kho, nhà điều hành, nhà ở công nhân, nhà ăn, nhà bảo vệ, nhà để xe, trạm điện, tường bao… gắn liền với đất tại diện tích 15.000m2 đất thuê 50 năm, Giấy chứng nhận số W 814316 do UBND tỉnh Hà Tây cấp ngày 08/01/2004”. Căn cứ Điều 111, 113 Luật thi hành án dân sự, Điều 23 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch đảm bảo, Hợp đồng thuê đất giữa bà H và Công ty H bị chấm dứt. Như vậy, trên cở sở Công ty H đơn phương chấp dứt hợp đồng thuê đất với bà H, khiến cho nhà xưởng cơ khí của bà H không thể hoạt động, ảnh hưởng kinh doanh, quyền lợi của bà nên Công ty H có trách nhiệm bồi tH thiệt hại cho bà H về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 426 Bộ luật dân sự 2005.
Tại Biên bản thống nhất số 08/2019/BB-HĐ ngày 03/6/2019, Công ty H thỏa thuận sẽ thanh toán cho bà H số tiền 2.500.000.000 đồng, thời gian thanh toán vào ngày 30/7/2019 tại Văn phòng làm việc Công ty H . Tuy nhiên cho đến nay, Công ty H vẫn chưa thanh toán cho bà số tiền 2.500.000.000 đồng trên, vì vậy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2.4] Về hậu quả pháp lý khi một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng: Hậu quả khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt là hợp đồng có hiệu lực đến thời điểm bị đơn phương chấm dứt. Kể từ thời điểm hợp đồng bị chấm dứt, các bên không có bất kỳ nghĩa vụ hợp đồng tương lai nào với nhau nữa.
Đối với việc bồi tH thiệt hại, căn cứ biên bản thống nhất ngày 03/6/2019, đơn trình bày ý kiến của nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đồng ý với mức bồi tH thiệt hại là 2.500.000.000 đồng mà Công ty H đã đưa ra. Vì vậy, Công ty H có trách nhiệm thanh toán cho bà H số tiền bồi tH thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng là 2.500.000.000 đồng.
Đối với tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán khoản bồi tH thiệt hại, Công ty H đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê đất ngày 17/12/2018, ngày 03/6/2019, Công ty H lập biên bản thống nhất về việc trả tiền bồi tH thiệt hại cho bà H. Tuy nhiên, từ đó đến nay, Công ty H vẫn không thanh toán cho bà số tiền bồi tH thiệt hại trên, đồng nghĩa với việc Công ty đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo khoản 1 Điều 351 và Điều 357 Bộ luật dân sự 2015. Trên cơ sở đó, ngoài việc trả cho bà H 2.500.000.000 đồng tiền bồi tH thiệt hại, Công ty H còn có nghĩa vụ trả một khoản tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán khoản bồi tH thiệt hại nêu trên. Cụ thể:
Do các bên không thỏa thuận được về lãi suất, nên theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất 20%/năm của khoản tiền chậm trả, tức là lãi suất là 10%/ năm của số tiền 2.500.000.000 đồng, tính từ ngày 30/7/2019 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử là ngày 29/8/2023 (1491 ngày chậm trả). Như vậy, số tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán khoản bồi tH thiệt hại là: 1.021.232.880 đồng. Tổng số tiền mà Công ty H phải thanh toán cho bà H là 3.521.232.880 đồng.
[3] Từ những phân tích trên, có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty H có trách nhiệm thanh toán cho bà số tiền bồi tH thiệt hại và tiền lãi phát sinh do chậm trả tiền, với tổng số tiền là 521.232.880 đồng.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 426, Điều 427 Bộ luật dân sự 2005; Khoản 1 Điều 351, Điều 357, Điều 429, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 111, Điều 113 Luật thi hành án dân sự 2008; Điều 23 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H Buộc bị đơn là Công ty H thanh toán cho bà Nguyễn Thị H số tiền bồi tH thiệt hại và tiền lãi phát sinh do chậm trả tiền, với tổng số tiền là 3.521.232.880đồng (Ba tỷ, năm trăm hai mốt triệu hai trăm ba mươi hai nghìn tám trăm tám mươi đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
2. Về án phí: Công ty H phải chịu 102.424.658 đồng án phí dân sự sơ thẩm Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị H số tiền 40.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0053822 ngày 23/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyên Thanh O, thành phố Hà Nội.
3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai hợp lệ theo quy định.
Bản án về tranh chấp kiện đòi tài sản số 25/2023/DS-ST
Số hiệu: | 25/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về