TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 18/2021/DS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 23/2021/TLST- DS ngày 25 tháng 03 năm 2021 về “Tranh chấp kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 6 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 95/2021/QĐST-DS ngày 06/07/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 105/2021/QĐST- DS ngày 23/07/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 116/2021/QĐST-DS ngày 20/08/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ;
Địa chỉ: Quốc lộ 62, ấp 2, xã Th, huyện Th, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phú V – chức vụ: Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Văn Th, sinh năm 1982 – có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ dân phố 12, phường Kh, TP. B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Anh Trần Bến C – vắng mặt;
Địa chỉ: Thôn 13, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình làm việc bên nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/10/2019, anh Trần Bến C có xin vào làm việc tại Công Ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ, trong quá trình thử việc tại Công ty thì anh C có bán được một số hàng hóa cho một vài đại lý vật tư nông nghiệp ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, do hàng hóa bán nợ cho đại lý nên Công ty cho anh Cảng giữ số nợ để tiện làm sổ cho các đơn hàng tiếp theo. Tuy nhiên anh C đã thu tiền công nợ khi chưa được sự đồng ý của công ty, khi Công ty yêu cầu trả lại số tiền trên thì anh C cố tình không trả nên đến ngày 14/7/2020 anh C đã viết một giấy nhận nợ của Công ty và hẹn qua tháng 8 trả số tiền 27.100.000 đồng. Đến thời hạn thanh toán anh Cảng không thanh toán cho Công ty số tiền trên nên Công ty đã khởi kiện. Trong đơn khởi kiện Công ty yêu cầu anh C trả tiền gốc 27.100.000 đồng và tiền lãi suất là 2.294.000 đồng. Đến ngày 19/08/2021 bên nguyên đơn có đơn xin rút đối với yêu cầu tính lãi suất, chỉ yêu cầu anh C trả số tiền gốc là 27.100.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và nội dung giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chấp hành tốt, bị đơn không chấp hành quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 143, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 244, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 256 của Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc anh C phải thanh toán cho Nguyên đơn số tiền 27.100.000 đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu về tính lãi suất.
Buộc bị đơn phải nộp án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về Tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ khởi kiện anh Trần Bến C trả số tiền gốc 27.100.000 đồng. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp kiện đòi tài sản” được quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS). Bị đơn hiện đang cư trú tại thôn 13, xã N, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.
[1.2] Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ đúng theo quy định tại Điều 173 của BLTTDS để thông báo thụ lý vụ án, triệu tập đương sự và các văn bản tố tụng khác cho đương sự. Nuyên đơn chấp hành tốt quy định của BLTTDS, bị đơn không chấp hành quy định của BLTTDS. Tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do.
Như vậy, bị đơn tự ý từ bỏ quyền được tham gia tố tụng, quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình quy định tại Điều 6, Điều 72 của BLTTDS. Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của BLTTDS.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ yêu cầu anh Trần Bến C trả số tiền 27.100.000 đồng là có thật, thể hiện qua giấy nhận nợ đề ngày 14/7/2020, có chữ ký của anh Trần Bến C. Tại thời điểm ký xác nhận nợ các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và hoàn toàn tự nguyện, nội dung của thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của BLTTDS thì “…2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Anh C đã cố ý trốn tránh, không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án và cũng không phản đối việc nhận nợ đó nên đây là những sự kiện không phải chứng minh.
[2.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn đề nghị anh C trả số tiền nợ gốc 27.100.000 đồng, HĐXX thấy rằng: Anh C đã vi phạm nghĩa vụ dân sự theo 1 Điều 351 của BLDS năm 2015 “1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ”.
Tại Điều 256 của Bộ luật Dân sự quy định về quyền đòi lại tài sản:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của bộ luật dân sự”… Anh C đang chiếm hữu số tiền 27.100.000 đồng của Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ đến thời hạn thanh toán nhưng cố tình không trả nên công ty yêu cầu trả số tiền gốc 27.100.000 đồng là có căn cứ để chấp nhận.
[3] Về yêu cầu lãi suất: Trong đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu anh C trả số tiền lãi là 2.294.000 đồng, đến ngày 19/8/2021 đại diện của nguyên đơn xin rút đối với yêu cầu về tiền lãi nên HĐXX đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu tính lãi suất.
Từ phân tích trên, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc anh C phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc 27.100.000 đồng.
[4] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút là phù hợp nên chấp nhận.
[5]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên anh Cảng phải chịu án phí theo quy định pháp luật là 27.100.000 đồng x 5% = 1.355.000 đồng.
[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 143, Điều 144; khoản 1 Điều 147, điểm a khoản 2 Điều 205 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 256, khoản 1 Điều 351 của Bộ luật dân sự 2015; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ.
Buộc anh Trần Bến C phải trả cho Công ty TNHH Công nghệ nông nghiệp Đ 27.100.000 đồng (Hai mươi bảy triệu một trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
1.2. Áp dụng khoản 2 Điều 244 của BLTTDS đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu về tính lãi suất.
2. Về án phí: Buộc anh Trần Bến C phải nộp 1.355.000 đồng (Một triệu ba trăm năm mươi lăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả nguyên đơn 735.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003305 ngày 24/03/2021 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.”
Bản án về tranh chấp kiện đòi tài sản số 18/2021/DS-ST
Số hiệu: | 18/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về