Bản án về tranh chấp kiện đòi tài sản số 04/2024/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2024/KDTM-PT NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 17/2023/TLPT- KDTM ngày 04 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp kiện đòi tài sản.

Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố H bị kháng cáo và kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2023/QĐ-PT ngày 04 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 79/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 12 năm 2023 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên toà số 04/TB-TKT ngày 24 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thu Th, sinh năm 1961; địa chỉ: Số 7Đ22, phường Đồng Quốc Bình, quận Q, thành phố P; có mặt.

- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xuất nhập khẩu S; địa chỉ trụ sở: Số 116 BT01, ngõ 97, đường Bạch Đằng, phường H, quận H, thành phố P.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

+ Ông Bùi Xuân Đ; sinh năm 1953; chức vụ: Giám đốc; địa chỉ: Số 116 BT01, ngõ 97, đường Bạch Đằng, phường H, quận H, thành phố P, là người đại diện theo pháp luật của bị đơn; vắng mặt.

+ Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện A, thành phố P và ông Trịnh Quốc V, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 24, phường Dịch Vọng, quận C, thành phố H, là người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ( Giấy uỷ quyền số 88/2023/UQ-SONGTOAN ngày 04/10/2023); đều có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà V Thị C; nơi ĐKHKTT: Tổ Đẩu Phượng 2, phường Văn Đẩu, quận K, thành phố P; nơi ở hiện nay: Số 151C Trần Nhội, phường Văn Đẩu, quận K, thành phố P; vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bà V Thị C: Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện A, thành phố P, là người đại diện theo uỷ quyền (Hợp đồng uỷ quyền ngày 05/12/2022); có mặt.

+ Ông Khổng Trung N, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 1, xã Tam Cường, huyện V, thành phố P; có mặt.

+ Ông Phạm Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Dụ Nghĩa, xã Lê Thiện, huyện A, thành phố P; có mặt.

- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xuất nhập khẩu S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và V Thị C.

- Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện Kiểm sát nhân dân quận H, thành phố P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị:

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thu Th trình bày:

Bà Lê Thu T và bà V Thị C là bạn bè lâu năm, năm 2016, bà T và bà V Thị C gặp lại, bà Th biết bà C làm công việc tại Công ty có mảng tạm nhập tái xuất và cần tiền cược CONT để làm hàng. Sau đó, trong quá trình giao dịch, bà C giới thiệu bà Th với ông Khổng Trung N – là Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S (gọi tắt Công ty S), đại diện nhận tiền cược CONT với bà Th. Lúc đó bà C đang là Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty S. Thời gian đầu làm ăn suôn sẻ, mỗi lần bà Th đưa tiền cược CONT thì ông N đều trả về cho bà Th phiếu cược CONT đầy đủ. Sau đó, số tiền cược CONT càng ngày càng nhiều lên nhưng ông N không đưa lại phiếu cược CONT đầy đủ hoặc phiếu cược CONT không ghi đủ số tiền bà Th đã đưa. Về sau phiếu cược CONT và số tiền bà Th đưa cho ông N không khớp nhau, bà Th có hỏi bà C, bà C trả lời phiếu cược CONT sẽ được chuyển về sau và sẽ khớp với số tiền đã đưa. Tuy nhiên sau đó không thấy bà C chuyển phiếu cược CONT lại cho bà Th nữa. Ngày 31-7-2017, bà Th đã gặp ông N để đối chiếu công nợ. Ông N đã lập biên bản làm việc. Giữa bà Th và ông N cùng xác nhận Công ty S nợ bà Th số tiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng, còn số tiền lãi do bà C sẽ trả. Bà Th gọi điện và đến trụ sở Công ty S rất nhiều lần để đòi nợ nhưng không gặp bà C, bà C đã chặn số điện thoại của của bà Th và hiện nay cũng không ở nơi cư trú. Vì vậy, bà Th khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S thanh toán cho bà toàn bộ số tiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S trình bày:

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S là pháp nhân độc lập, có tư cách pháp lý độc lập với cá nhân bà V Thị C và ông Khổng Trung N. Do đó, những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý đối với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S với bà T không có bất kỳ thỏa thuận nào về việc vay mượn tiền hoặc cược CONT. Việc vay mượn tiền của bà C đối với bà T hay ông N là vay mượn cá nhân chứ không liên quan đến Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S. Vì vậy bà T có khởi kiện ra Tòa án thì phải kiện đối với bà C hoặc ông N chứ không phải khởi kiện Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Khổng Trung N trình bày:

Ông N là người làm thuê cho bà V Thị C và ông Phạm Văn Q từ năm 2009. Ban đầu ông N làm thủ kho cho Công ty Phúc Lộc (Công ty do bà C và ông Q thành lập) và làm tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Đến năm 2011 bà C điều ông N về làm nhân viên giao nhận tại tỉnh Cao Bằng. Đến năm 2013 bà C điều ông N về P và bổ nhiệm ông N làm giám đốc Công ty S với mức lương 7.000.000 đồng/tháng và được nuôi ăn ở tại trụ sở Công ty S đồng thời cũng là nhà riêng của bà V Thị C (ông Q cũng ăn ở sinh hoạt tại đây). Công việc cụ thể là quản lý giao nhận công hàng, quản lý xe, điều động lái xe dỡ hàng, trả tiền lái xe, trả tiền cược cont…Đến năm 2016 bà C có giới thiệu bà T và nói là bạn làm ăn với bà cùng ông Q từ trước. Bà C có nói “từ nay trở đi đối với tiền cược Cont hàng cháu báo cho cô T để cô ấy đi cược Cont cùng với anh Tr lấy lệnh tại các hãng tàu”. Ban đầu làm ăn thuận lợi ông N chỉ báo số ngày cược Cont cho bà C để bà thanh toán tiền lãi với bà T. Khi tạo dựng được niềm tin khoảng gần 01 năm giữa bà C và bà T có thỏa thuận đưa tiền cho ông N với tư cách là giám đốc Công ty S nhận sau đó ông N chi cho hoạt động của Công ty dưới sự chỉ đạo của bà C, ông Q. Bà T đưa tiền cho ông N nhận nhiều lần trong một thời gian theo chứng cứ đã gửi cho Tòa án và công nợ lên đến 5.390.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 7/2020 ông N không làm tại Công ty S nữa. Nay bà T kiện Công ty S tại Tòa án, ông N cho rằng khi ông làm giám đốc Công ty S mọi khoản tiền lấy từ bà T, trước khi lấy tiền ông N có làm kế hoạch báo cáo bà C và bà C gọi điện cho bà T đưa tiền cho ông N và bảo ông N ký nhận. Nay bà C và ông Q cho rằng số tiền ông N ký nhận tiền với bà T là trách nhiệm cá nhân chứ không liên quan đến Công ty S là không có căn cứ. Vì ông N không quen biết bà T và cũng không tự nhiên bà T đưa tiền cho ông N và có ký nhận tiền mà không có tài sản đảm bảo. Ông N cam đoan số tiền 5.390.000.000 đồng bà T đã đưa cho ông N trong một thời gian năm 2017 là phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty S dưới sự chỉ đạo của bà C và ông Q.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C trình bày:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện ủy quyền của bà C trình bày: Bà C là thành viên sáng lập của Công ty S, trong quá trình kinh doanh bà C có biết bà Lê Thu T nhưng giữa bà và bà T cũng như Công ty S không ký kết bất kỳ thỏa thuận hợp tác kinh doanh nào. Do đó việc bà T cho rằng bà C là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là trái quy định của pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của bà. Bởi vậy bà C đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thu T. Bà C đề nghị xem xét về hành vi vi phạm pháp luật của bà T, ông N và chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để xử lý hình sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Q trình bày:

Theo quy định pháp luật và quy định Công ty, khi Công ty S vay vốn cá nhân thì Công ty phải họp Hội đồng thành viên để thống nhất việc Công ty vay vốn. Việc ký giấy tờ tiền cá nhân giữa ông Khổng Trung N và bà Lê Thu T là khoản vay giữa hai cá nhân và không liên quan đến Công ty S, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.

Ngày 08/3/2023 Tòa án nhân dân quận H, thành phố H có gửi Công văn số 19/TA-HB về việc đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H xem xét giải quyết vụ việc có dấu hiệu hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đối với hành vi chiếm đoạt của bà V Thị C.

Ngày 28/4/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H trả lời bằng Công văn số 423 cụ thể: Không có đủ căn cứ xác định việc bà C có hành vi chiếm đoạt số tiền của bà T theo đơn tố giác.

* Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20/7/2023:

- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử buộc Công ty S phải trả cho bà T số tiền 5.390.000.000 đồng và không yêu cầu trả lãi.

- Bị đơn Công ty S, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thu T và cho rằng đây là khoản nợ cá nhân giữa bà T, bà C và ông N. Đối với những người đã nhận tiền và ký giấy nhận tiền của bà Lê Thu T để làm việc cho Công ty S như bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị Vân C, ông V Tr. Những người này là những người Công ty S thuê không có hợp đồng lao động để làm xong một việc cụ thể và Công ty trả tiền, vì vậy phía Công ty S không biết địa chỉ nơi ở của những người trên.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Khổng Trung N trình bày như trong quá trình giải quyết vụ án, ông khẳng định là giám đốc làm thuê do bà C và ông Q dựng lên. Khi làm giám đốc Công ty S ông được trả 7.000.000 đồng/tháng và sau này được nâng lên 10.000.000 đồng/tháng. Được nuôi ăn, ở không phải trả tiền tại trụ sở Công ty S là nhà riêng của bà V Thị C. Việc hoạt động của Công ty S hàng ngày ông N phải báo cáo bà C, ông Q, việc vay tiền của bà Lê Thu T được thu, chi ra sao đều dưới sự chỉ đạo của bà C thậm chí trong bữa cơm hàng ngày ăn cùng bà C, ông Q, ông N cũng phải báo cáo luôn. Vì vậy, ông N khẳng định khoản nợ 5.390.000.000 đồng là khoản nợ của Công ty S đối với bà Lê Thu T.

+ Ông Phạm Văn Q bày: Việc ký giấy tờ tiền cá nhân giữa ông Khổng Trung N và bà Lê Thu T là khoản vay giữa hai cá nhân, không liên quan đến Công ty S, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.

- Kiểm sát viên có ý kiến tại phiên tòa ngày 20/7/2023 như sau:

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ, quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa; căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 259 Bộ Luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu nguyên đơn bà Lê Thu T giao nộp các phiếu cược Cont từ thời điểm 23/4/2017 đến ngày 31/7/2017 để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ. Yêu cầu đưa những người là bà Phạm Thị H, bà Trịnh Thị Vân C, ông V Tr, ông Bùi Xuân Đ tham gia tố tụng với vai trò là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Ngày 26/7/2023 Viện kiểm sát quận H, thành phố H có Công văn số 01/YC-VKS-DS ngày 26/7/2023 về việc yêu cầu Tòa án nhân dân quận H xác minh, thu thập chứng cứ để có đủ chứng cứ giải quyết vụ án với nội dung: Yêu cầu cơ quan thuế cung cấp báo cáo tài chính của Công ty S năm 2017, tờ khai thuế của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017, bảng cân đối kế toán do doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan thuế khi quyết toán thuế; Yêu cầu Công ty S cung cấp tài liệu nhập hàng Cont của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017; Yêu cầu bà Lê Thu T cung cấp phiếu cược Cont của các tháng 3,4,5,6,7 năm 2017; Làm rõ nhân thân lý lịch của những người như bà Phạm Thị H, bà Trịnh Thị Vân C, ông V Tr, ông Bùi Xuân Đ. Những người này ký nhận tiền của bà T, do đó cần xác minh lý lịch, triệu tập ghi lời khai để làm rõ vai trò, nhiệm vụ của những người này trong Công ty S là gì. Đặc biệt ông Bùi Xuân Đ đang là người đại diện theo pháp luật của Công ty S. Cần phải ghi lời khai của ông Đ làm rõ khoản tiền ông Đ ký nhận của bà T vào ngày 09/6/2017 (150.000.000 đồng) và ngày 30/6/2017 (90.000.000 đồng).

Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã ra Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 04/2023/QĐST-KDTM ngày 20/7/2023 và ấn định phiên tòa sẽ được xét xử lại vào ngày 28/7/2023.

Sau khi Tòa án Tạm ngừng phiên tòa phía nguyên đơn bà Lê Thu T đã cung cấp các phiếu cược Cont và biên bản đối chiếu công nợ cho Tòa án.

* Tại phiên tòa ngày 28/7/2023:

Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện Bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tiếp tục khẳng định không thể cung cấp địa chỉ và nơi ở của bà Phạm Thị H, bà Trịnh Thị Vân C, ông V Tr.

Kiểm sát viên tiếp tục đề nghị tạm ngừng phiên tòa để thu thập toàn bộ tài liệu như trong nội dung yêu cầu xác minh số 01 ngày 26/7/2023 của Viện kiểm sát để có căn cứ giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.

Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 1, khoản 2 Điều 2, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại; các điều 116,117,134,135 của Bộ luật dân sự; các Điều 48, 64 Luật Doanh nghiệp năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thu T đối với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S:

Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải trả cho bà Lê Thu T số tiền là 5.390.000.000 (năm tỷ, ba trăm, chín mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bà Lê Thu T có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Nội dung kháng cáo, kháng nghị:

- Ngày 12/8/2023, bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn bộ nội dung bản án của Toà án nhân dân quận H, thành phố H vì vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng dân sự cũng như các quy định pháp luật dân sự khác;

- Ngày 11/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận H ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS đối với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28/7/2023 của Toà án nhân dân quận H theo hướng: Huỷ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên để yêu cầu Toà án nhân dân quận H thu thập bổ sung chứng cứ xét xử lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Công ty Cổ phần Thương mại H trình bày theo Biên bản xác minh ngày 23/01/2024 thể hiện lý do các phiếu cược cont của Công ty S có tên Công ty H: “ Công ty S đi cược thay cont cho hàng hoá của Công ty H để được làm dịch vụ vận chuyển. Số tiền cược cont do Công ty S tự chi ra và thu về sau khi đã trả vỏ công. Công ty H không liên quan đến các khoản tiền Công ty S bỏ ra để cược cont và không liên quan đến việc vay nợ giữa bà Lê Thu Th và Công ty S”. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Khổng Trung N cung cấp cho Toà án Vi bằng số 84/2024/VB-TPLHP ngày 19/01/2014 trích từ tin nhắn Zalo giữa ông N và bà C thể hiện nội dung hàng ngày ông N có báo cáo bà C kế hoạch làm hàng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn bà Lê Thu Th trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận H.

- Người đại diện theo uỷ quyền bị đơn ông Phạm Văn Q và ông Trịnh Quốc V thống nhất trình bày: Về việc thu thập tài liệu chứng cứ tại cấp sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng từ liên quan đến việc cược cont và bản gốc biên bản làm việc xác nhận nợ giữa bà Th và ông N. Về thẩm quyền ký kết và xác lập thoả thuận, căn cứ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Điều lệ tổ chức hoạt động của Công ty S, bị đơn khẳng định ông N xác nhận biên bản làm việc là vượt quá thẩm quyền, ông N không có thẩm quyền được xác nhận nợ. Biên bản xác nhận nợ là biên bản lập khống. Giữa Công ty S và bà Th không ký kết bất kì một Hợp đồng hợp tác kinh doanh nào. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên vô hiệu biên bản xác nhận nợ do biên bản lập khống.

- Người đại diện theo uỷ quyền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C là ông Phạm Văn Q trình bày: Giữ nguyên toàn bộ kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Từ khi thụ lý cho đến khi tuyên án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận H.

- Xét về việc giải quyết nội dung vụ án: Ngày 16/8/2019 giữa bà T và ông Khổng Trung N với tư cách là Giám đốc Công ty S ký Biên bản làm việc cùng chốt công nợ, xác nhận Công ty S còn nợ bà T tổng số tiền là 5.390.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện việc vay tiền hoặc góp vốn hợp tác giữa bà T và Công ty S bằng văn bản. Các giao dịch nhận tiền giữa ông N và bà T cũng không được thể hiện là giao dịch, hoạt động của Công ty và không được bà C, ông Q (các thành viên khác của Công ty) thừa nhận. Ngoài công nợ được chốt theo biên bản làm việc ngày 16/8/2019 giữa ông N (với tư cách Giám đốc đại diện cho Công ty S) với bà T về khoản nợ 5.390.000.000 đồng là căn cứ chính để bà T khởi kiện đòi tiền; thì cả bà T và ông N đều không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh khoản tiền đó là nhằm mục đích, phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty S, bởi các khoản tiền được ông N nhận từ bà T đều được quản lý, theo dõi, chi tiêu riêng bởi cá nhân ông N và không qua kế toán để hạch toán vào nguồn thu, chi của Công ty.

Mặt khác, trong tổng số tiền 5.390.000.000 đồng được bà T chuyển giao cho Công ty S vay (theo lời khai của bà T), ngoài người nhận tiền là ông N, còn có một số cá nhân khác cũng tham gia nhận tiền là bà Phạm Thị H, bà Trịnh Thị Vân C, ông V Tr, ông Bùi Xuân Đ nhưng quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm những cá nhân này chưa được Tòa án xác minh, làm rõ và đưa vào tham gia tố tụng để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của họ trong Công ty TNHH S và việc nhận tiền của họ từ bà T có liên quan gì đến hoạt động của Công ty hay không. Bà T cũng không xuất trình được các phiếu cược Cont từ khoảng thời gian tháng 4/2017 đến ngày 31/7/2017 tương ứng với số tiền bà T đã ghi chép và có ký nhận tiền của ông N, bà H, bà C, ông Tr, ông Đ. Đồng thời, tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện, có nhiều giấy mượn Cont về kho riêng có ghi bên mượn là Công ty Cổ phần thương mại H nhưng vai trò, mối liên hệ của Công ty này với nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, làm rõ.

Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 27/6/2016 có ghi nhận thành viên góp vốn của Công ty S gồm có bà V Thị C chiếm 75% vốn điều lệ, ông Phạm Văn Q chiếm 20% vốn điều lệ và ông Khổng Trung N chiếm 5% vốn điều lệ và Biên bản làm việc ngày 16/8/2019 để khẳng định việc vay, nhận tiền giữa ông N và bà T là hoạt động nhằm huy động vốn của Công ty S, đồng thời các thành viên trong Công ty đều phải biết. Từ đó, buộc Công ty S phải có trách nhiệm trả cho bà Lê Thu T số tiền nợ gốc là 5.390.000.000 đồng là nhận định, đánh giá, khẳng định mang tính chủ quan, không đủ căn cứ vững chắc. Vì vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận H là có căn cứ trên cơ sở tài liệu phiên tòa sơ thẩm.

Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án đã thực hiện xác minh bổ sung thể hiện toàn bộ tin nhắn giữa bà C và ông N trong quá trình điều hành hoạt động Công ty, ông N được thuê làm giám đốc nhưng mọi hoạt động đều do bà C chỉ đạo ông N làm. Công ty H cũng xác định Công ty S là người bỏ tiền cược Cont thay Công ty H để được nhận dịch vụ vận chuyển hàng, điều này phù hợp với danh sách cược Cont của Công ty S, do Công ty H theo dõi từ năm 2016-2017. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông N, ông Q (đại diện theo ủy quyền của bà C) khai nhận những người nhận tiền và ký sổ của bà T có ông Đ, bà C, ông Tr, bà H đều là những người được Công ty thuê để chạy lệnh theo vụ việc, không có hợp đồng lao động, khi tham gia giao dịch với các hãng tàu hoặc chủ hàng thì có giấy giới thiệu của ông N hoặc qua quen biết bà C, ông Q để thực hiện, đến nay họ đã nghỉ nên không xác định được địa chỉ. Tòa án đã yêu cầu đương sự cung cấp nhân thân, địa chỉ của những người này nhưng nguyên đơn, bị đơn, người liên quan không cung cấp được.

Những người đến nhận tiền của bà T đều do bà C hoặc ông N gọi điện thoại trao đổi trước, việc cược Cont thực hiện qua mã lệnh của Công ty H, Công ty S không trực tiếp đặt cược Cont và thực hiện giao dịch bằng tiền mặt nên không có chứng từ tiền xuất ra, thu về Công ty S.

Do đó, căn cứ tài liệu xác minh tại giai đoạn phúc thẩm và lời khai đương sự tại phiên tòa thì Công ty S hoạt động kinh doanh dịch vụ và có hoạt động thuê Cont, cược tiền thuê Cont của các hãng tàu, hoạt động do ông N điều hành, phù hợp với việc vay tiền đặt cược Cont của bà T với tư cách Công ty là có căn cứ.

Tại tất cả các lần nhận tiền, bà T đều ghi sổ thể hiện Công ty S vay tiền hoặc các cá nhân thuộc Công ty S nhận tiền và ký nhận. Điều đó thể hiện các cá nhân nhận tiền đều thuộc người do Công ty S cử đến, đại diện Công ty S để nhận tiền vay từ bà T. Trong đó có ông Bùi Xuân Đ hiện nay vẫn đang làm việc cho Công ty S. Mặc dù không có lời khai của những người này nhưng căn cứ vào sổ ghi chép của bà T và chữ ký nhận tiền của các cá nhân đều thể hiện việc nhận tiền vay cho Công ty S.

Như vậy, ngày 16/8/2019, ông Khổng Trung N với tư cách đại diện theo pháp luật của Công ty S lập biên bản để chốt lại số nợ giữa Công ty S với bà T là phù hợp pháp luật, không trái với Điều lệ của Công ty như ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của Công ty S trình bày tại phiên tòa phúc thẩm.

- Xét về quan hệ tranh chấp: Giao dịch giữa bà Lê Thu T với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S là giao dịch cho vay tiền giữa cá nhân và Công ty (theo đơn khởi kiện của bà T). Theo quy định khoản 1 Điều 28 BLTTDS thì tranh chấp thuộc quan hệ kinh doanh thương mại phải bao gồm hai yếu tố là có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận. Mặc dù bà T khai cho vay có lấy lãi nhưng không đáp ứng đủ điều kiện điều luật quy định nên bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là kinh doanh thương mại là không có căn cứ. Tuy nhiên, việc xác định sai quan hệ tranh chấp không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên về xác định chủ thể phải trả nợ. Do vậy, để ổn định bản án sơ thẩm thì không cần thiết phải sửa theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát.

Từ phân tích trên cho thấy, tài liệu, chứng cứ thu thập bổ sung tại giai đoạn xét xử phúc thẩm và kết quả làm rõ tạ phiên tòa sơ thẩm có căn cứ để xác định Công ty S là người vay tiền của bà T thông qua các cá nhân đại diện. Vì vậy, cần xác định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận H là có căn cứ, tuy nhiên, cấp phúc thẩm đã khắc phục, bổ sung chứng cứ nên không cần thiết phải sửa hoặc hủy án theo hướng Viện kiểm sát đã kháng nghị.

Xét kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phù hợp với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận H nhưng do Viện kiểm sát nhân dân thành phố thay đổi quan điểm kháng nghị nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS ngày 11/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H và bác kháng cáo của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và bà V Thị C. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28/7/2023 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố H.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận H, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa nguyên đơn bà Lê Thu Th và bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa một cá nhân với một pháp nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận (Công ty S vay tiền của bà Th để phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty, bà Th cho Công ty S vay nhằm mục đích phát sinh lợi nhuận hưởng lãi hàng tháng). Vì vậy Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xác định quan hệ pháp luật tranh chấp thuộc vụ án kinh doanh thương mại và thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Toà án nhân dân quận H theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ.

[2] Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S có nội dung phù hợp quy định tại Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự, thực hiện trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận và đưa ra xét xử phúc thẩm.

- Về nội dung:

Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C:

[3] Về giao dịch kinh doanh thương mại giữa bà Lê Thu Th và Công ty S: Theo nội dung khởi kiện của bà Lê Thu Th, từ năm 2016, giữa bà Th và Công ty S có thoả thuận về việc bà Th cho Công ty S vay vốn để cược CONT làm hàng. Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 27/6/2016 của Công ty S xác định trong khoảng thời gian đó, Công ty S gồm 03 thành viên góp vốn là bà V Thị C, ông Phạm Văn Q và ông Khổng Trung N, người đại diện theo pháp luật là ông Khổng Trung N – Chức danh: Giám đốc. Mặc dù việc bà Th cho Công ty S vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh không được các bên thoả thuận bằng văn bản, không ký hợp đồng cụ thể, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai của người cho vay là bà Th về giao dịch vay vốn giữa các bên hoàn toàn phù hợp với lời khai của người đại diện theo pháp luật của Công ty S là ông Khổng Trung N. Mặt khác, tại Điều 16 của Điều lệ Công ty (do Sở Kế hoạch và Đầu tư cung cấp) về các quyền và nhiệm vụ của Giám đốc quy định Giám đốc có các quyền và nhiệm vụ sau đây: “Quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng ngày của Công ty; ký kết hợp đồng nhân danh Công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên” và Điều 20 về người đại diện theo pháp luật của Công ty quy định:“Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty”, vì vậy, ông N hoàn toàn có quyền đại diện và nhân danh Công ty để thực hiện giao dịch vay vốn với bà Th nhằm phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh. Giao dịch này được người có thẩm quyền của các bên giao kết trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.

[4] Về nghĩa vụ trả nợ: Văn bản chốt công nợ ngày 16/8/2019 được ký kết giữa bà Lê Thu Th và Công ty S có nội dung xác nhận: Công ty S còn nợ bà Lê Thu T số tiền là 5.390.000.000 đồng, có chữ ký của bên cho vay là bà Lê Thu Th và chữ ký của người đại diện theo pháp luật của Công ty S là ông Khổng Trung N, đóng dấu của bên vay là Công ty S. Tại thời điểm chốt công nợ nói trên, ông Khổng Trung N vẫn đang là người đại diện theo pháp luật của Công ty, do đó ông N là người có thẩm quyền đại diện Công ty ký xác nhận công nợ với bà Th và văn bản chốt công nợ ngày 16/8/2019 giữa bà Th và Công ty S là hợp pháp, buộc các bên phải thực hiện. Vì vậy Toà án nhân dân cấp sơ thẩm căn cứ vào văn bản chốt công nợ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty S phải trả cho bà Lê Thu T số tiền là 5.390.000.000 đồng là có căn cứ.

[5] Phía bị đơn Công ty S cho rằng Công ty S với bà Lê Thu T không có bất kỳ thỏa thuận nào về việc vay mượn tiền hoặc cược CONT, việc vay mượn tiền của bà C đối với bà T hay ông N là vay mượn cá nhân chứ không liên quan đến Công ty S: Hội đồng xét xử nhận thấy theo theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 27/6/2016 thành viên góp vốn của Công ty S gồm có bà V Thị C chiếm 75% vốn điều lệ, ông Phạm Văn Q chiếm 20% vốn điều lệ; ông Khổng Trung N chiếm 5% vốn điều lệ. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như lời khai của ông Khổng Trung N tại phiên tòa thể hiện ông N là người làm thuê cho bà C và ông Q và được trả lương ban đầu là 7.000.000 đồng/tháng, sau này được tăng lên 10.000.000 đồng/tháng. Ông N được nuôi ăn ở tại trụ sở Công ty S cũng đồng thời thời là nhà riêng của bà C, việc vay mượn, thu chi hoạt động của Công ty S được báo cáo hàng ngày cho bà C, ông Q. Mặt khác bà Lê Thu T không có quan hệ gì với ông Khổng Trung N, việc bà T đưa tiền cho ông N phục vụ hoạt động của Công ty S trên cơ sở giới thiệu của bà V Thị C giới thiệu ông Khổng Trung N là giám đốc Công ty S nhằm huy động vốn hoạt động kinh doanh. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, ông Khổng Trung N có cung cấp bổ sung cho Toà án Vi bằng số 84/2024/VB-TPLHP ngày 19/01/2014 trích từ tin nhắn Zalo giữa ông N và bà C thể hiện nội dung hàng ngày ông N có báo cáo bà C kế hoạch làm hàng, mọi hoạt động kinh doanh của Công ty ông N đều phải báo cáo bà C như tiền lấy lệnh, cược cont, phí đường bộ, ứng xe,…và cả những khoản ông N ghi “nhận cô Th” cũng được thể hiện trong kế hoạch làm hàng đã gửi cho bà C. Do đó, có đủ căn cứ khẳng định hoạt động nhằm huy động vốn vay giữa Công ty S và bà Lê Thu T, các thành viên trong Công ty S đều biết. Vì vậy phía Công ty S từ chối khoản nợ 5.390.000.000 đồng đối với yêu cầu của bà Lê Thu T là không có căn cứ.

- Xét kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H:

[6] Về nội dung kháng nghị xác định việc cá nhân bà Th cho Công ty S vay tiền là giao dịch dân sự: Như đã phân tích ở trên, tranh chấp được Toà án xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại là có căn cứ.

[7] Về nội dung kháng nghị việc bà Th không xuất trình được đầy đủ các phiếu cược CONT tương ứng với số tiền bà Th ghi chép: Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã thu thập tài liệu chứng cứ là các giấy cược CONT do bà Th cung cấp và tiến hành xem xét, đánh giá các tài liệu này như một nguồn chứng cứ của vụ án chứ không sử dụng làm căn cứ để xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các căn cứ được Toà án xem xét để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tính hợp pháp của giao dịch vay vốn giữa bà Th và Công ty S và Giấy xác nhận công nợ giữa các bên đã được phân tích tại mục [3] và [4].

[8] Về nội dung nhiều giấy mượn CONT ghi bên mượn là Công ty Cổ phần Thương mại H (Công ty H) mà chưa được Toà án cấp sơ thẩm làm rõ: Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung kháng nghị này của Viện Kiểm sát là có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm có thiếu sót trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ vai trò của Công ty H. Cần phải làm rõ mối quan hệ giữa Công ty H với nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định vai trò tố tụng của Công ty H trong vụ án. Tại Biên bản xác minh ngày 23/01/2024 của Toà án nhân dân thành phố H tại Trụ sở Công ty H thể hiện lý do các phiếu cược CONT của Công ty S có ghi tên Công ty H : “Công ty S đi cược thay CONT cho hàng hoá của Công ty H để được làm dịch vụ vận chuyển. Số tiền cược CONT do Công ty S tự chi ra và thu về sau khi đã trả vỏ công. Công ty H không liên quan đến các khoản tiền Công ty S bỏ ra để cược CONT và không liên quan đến việc vay nợ giữa bà Lê Thu Th và Công ty S”. Do đó, căn cứ khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, Công ty H không được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này.

[9] Về nội dung kháng nghị Toà án cấp sơ thẩm không đưa những người gồm bà Phạm Thị H, bà Trịnh Thị Vân C, ông V Tr, ông Bùi Xuân Đ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ghi lời khai của họ để làm rõ vai trò, nhiệm vụ của những người này trong Công ty S, lý do nhận tiền từ bà Th, sử dụng khoản tiền đã nhận vào việc gì: Về nội dung này, Hội đồng xét xử nhận thấy Công ty S có tư cách pháp nhân độc lập, dùng chính danh nghĩa của mình để tham gia vào các giao dịch và phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của pháp nhân; giữa Công ty S và những người nêu trên chỉ là quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý nội bộ của Công ty nên việc đưa những người này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không cần thiết. Trong trường hợp có căn cứ xác định những người trên thực hiện các giao dịch nhận tiền từ bà Th làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Công ty S thì Công ty có quyền khởi kiện những cá nhân này bằng một vụ án khác.

[10] Về nội dung kháng nghị Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ việc ông Khổng Trung N nhận tiền từ bà Th nhưng không giao nộp lại cho kế toán để hạch toán vào nguồn thu, chi của Công ty mà chỉ lập bảng theo dõi diễn dải và sử dụng tiền theo sự chỉ đạo của bà C; bảng theo dõi diễn giải là bản phô tô đánh máy không có chữ ký và đóng dấu Công ty nên không khách quan: Xét thấy việc sau khi nhận được tiền từ bà Th, ông N (với chức danh là Giám đốc Công ty) chỉ lập bảng để tự theo dõi tiền cược CONT, sử dụng tiền theo sự chỉ đạo của bà C mà không giao lại cho kế toán Công ty là các vấn đề thuộc phạm vi điều hành, quản lý nguồn tài chính mang tính nội bộ của Công ty S, nếu ông N có sai phạm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao tại Công ty thì chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về lao động và điều lệ Công ty, đây là hoạt động nội bộ của Công ty.

[11] Như vậy, tại thời điểm Viện Kiểm sát nhân dân quận H kháng nghị là có phần có căn cứ. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án đã thu thập và các đương sự đã cung cấp bổ sung các tài liệu, chứng cứ. Xét thấy đã đủ căn cứ buộc bị đơn phải trả nguyên đơn số tiền 5.390.000 đồng và tranh chấp được xác định là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị không huỷ, không sửa mà giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ.

[12] Về án phí: Căn cứ Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

[12.1] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên bà Lê Thu Th không phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải nộp tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 113.390.000 đồng.

[12.2] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C không được chấp nhận nên bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và bà V Thị C phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 148, Điều 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 116, 117, 134, 135 của Bộ luật dân sự; khoản 3 Điều 1, khoản 2 Điều 2, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại; các Điều 48, 64 Luật Doanh nghiệp năm 2014;

Căn cứ Điều 26, Điều 29 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xuất nhập khẩu S và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà V Thị C, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố H. Cụ thể:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thu T đối với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S:

Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải trả cho bà Lê Thu T số tiền là 5.390.000.000 (năm tỷ, ba trăm chín mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày bà Lê Thu T có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí:

- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S phải nộp tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 113.390.000 (Một trăm mười ba triệu, ba trăm chín mươi nghìn) đồng.

Trả lại cho bà Lê Thu Th số tiền tạm ứng án phí đã nộp 56.695.000 (năm mươi sáu triệu, sáu trăm chín mươi lăm nghìn) đồng theo Biên lai số 0009598 ngày 08/11/2022 của C cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố H.

- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và bà V Thị C mỗi bên phải nộp án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 (hai triệu) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0002522 ngày 18/8/2023 và Biên lai số 0002523 ngày 18/8/2023 của C cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố H. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu S và bà V Thị C đã nộp đủ.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp kiện đòi tài sản số 04/2024/KDTM-PT

Số hiệu:04/2024/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về