TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YB
BẢN ÁN 15/2021/DS-PT NGÀY 14/12/2021 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh YB xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 19/2021/TLPT-DS ngày 21 tháng 10 năm 2021 về Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thị xã NL bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 14/2021/QĐ-PT ngày 10 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số: 11/2021/QĐ-PT ngày 26 tháng 11 năm 2021. Giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hà Thị Ng Địa chỉ: Bản SH, xã NghL, thị xã NL, tỉnh YB. Có mặt Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Lỗ Văn D Địa chỉ: Tổ TC3, phường TA, thị xã NL, tỉnh YB. Có mặt - Bị đơn: Bà Điêu Thị T.
Địa chỉ: Bản PhH, xã NghL, thị xã NL, tỉnh YB. Có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 Địa chỉ: Tổ 9, phường TT, thị xã NL, tỉnh YB. Vắng mặt - Những người làm chứng:
1. Bà Đồng Thị H Địa chỉ: Thôn Ỏ, xã PNh, thị xã NL, tỉnh YB.
2. Bà Điêu Thị D2 Địa chỉ: Tổ PK, phường TT, thị xã NL, tỉnh YB. Vắng mặt 3. Bà Điêu Thị T1 Địa chỉ: Bản SĐ, xã NghL, thị xã NL, tỉnh YB. Vắng mặt 4. Ông Vũ Quốc K Địa chỉ: Tổ 9, phường TT, thị xã NL, tỉnh YB.Vắng mặt Người kháng cáo là nguyên đơn bà Hà Thị Ng và bị đơn bà Điêu Thị T cùng có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo hồ sơ và diễn biến tại phiên toà thì vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 17 tháng 3 năm 2021 và các lời khai của nguyên đơn, bà Hà Thị Ng trình bày:
Khoảng 08 giờ ngày 28-02-2021, bà Điêu Thị T cho rằng con gái bà Hà Thị Ng làm đổ xe đạp điện nên bắt bà Hà Thị Ng phải trả tiền sửa xe. Hai người xảy ra xích mích, bà Điêu Thị T có nắm vào cổ tay trái của bà Hà Thị Ng kéo đi với mục đích bắt bà Ngđi ra quán sửa xe để trả tiền. Bà Hà Thị Ng không đồng ý nên giằng tay lại không cho bà T kéo đi. Sau đó các bên thoả thuận được với nhau về việc bà Ng sẽ trả tiền sửa xe cho bà T nên bà Ng và bà T đi về quán để tiếp tục bán hàng. Khoảng 20 phút sau, bà Hà Thị Ng phát hiện chiếc vòng vàng đeo trên cổ tay trái bị mất nên đã ra vị trí giằng co giữa hai người để tìm nhưng không thấy nên đã đến gặp bà T để hỏi xem có nhặt được chiếc vòng không nhưng bà T nói là không nhặt được. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, bà Hà Thị Ng báo Công an phường TT thị xã NL về việc bị mất tài sản. Khi cơ quan Công an xuống hiện trường để làm việc thì có phát hiện và thu giữ được 01 mảnh vỡ của chiếc vòng vàng. Trong quá trình tìm kiếm, bà Ng có nghe thấy một số người nói lại là có nhìn thấy bà Nguyễn Thị Thuỳ D1, là hàng xóm ở gần nơi bà bán hàng có đi ra xem lúc bà và bà T cãi cọ, giằng kéo nhau và có cúi xuống nhặt một vật gì đó rồi đi ngay vào nhà. Bà Hà Thị Ng đã đến gặp bà D1 để hỏi xem có nhặt được vòng không thì cho xin lại nhưng bà D1 nói không nhặt được.
Trong quá trình giải quyết tại cơ quan Công an phường TT, do không xác định được ai là người đã nhặt được chiếc vòng vàng nên bà Hà Thị Ng đã rút đơn trình báo tại cơ quan Công an. Đồng thời làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Điêu Thị T phải bồi thường số vàng bị mất, tính thành tiền là 8.990.000 đồng (Tám triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng).
Tại các bản tự khai, biên bản hoà giải và tại phiên toà, bị đơn bà Điêu Thị T trình bày: Sáng ngày 28-02-2021 giữa bà với bà Hà Thị Ng có xảy ra cãi cọ, co kéo nhau như nội dung bà Ng trình bày. Trong lúc cãi nhau, bà T có nắm vào cổ tay trái bà Ng kéo đi với mục đích kéo bà Ng ra quán sửa xe để bắt bà Ng trả tiền nhưng bà Ng giằng tay ra. Sau đó hai bên thoả thuận được với nhau là bà Ng sẽ trả tiền sửa xe nên hai người đã đi về quầy hàng của mình để tiếp tục bán hàng. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, bà Hà Thị Ng sang hỏi bà T có nhặt được vòng vàng của bà không và lục túi bà T để tìm nhưng không có. Khi Công an phường TT xuống tìm thì có thu giữ được một mảnh vòng vàng của bà Ng rơi ở vị trí hai người co kéo nhau, gần chỗ bà Ng bán hàng.
Đối với yêu cầu của bà Hà Thị Ng đưa ra, buộc bà phải bồi thường trị giá phần bị mất của chiếc vòng vàng là 8.990.000 đồng (Tám triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng), bà Điêu Thị T không nhất trí vì cho rằng bà không phải là người làm mất, nên không có trách nhiệm bồi thường.
Tại Biên bản ghi lời khai tại cơ quan Công an phường TT, thị xã NL ngày 03 tháng 3 năm 2021; Bản tự khai ngày 23 tháng 4 năm 2021 và tại phiên toà sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 trình bày:
Sáng ngày 28-02-2021 bà nghe thấy có tiếng cãi cọ nên đi ra xem, nhưng do hai người này cãi nhau bằng tiếng Thái, bà nghe không hiểu nên đi về nhà. Một lúc sau bà Hà Thị Ng và một người nữa sang nhà hỏi xem bà có nhặt được vòng vàng của bà Ng đánh rơi không thì cho xin lại. Bà có nói với bà Ng là không nhặt được, còn ai nói là thấy bà nhặt được thì bảo họ vào nói chuyện nhưng không ai nói gì. Bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 khẳng định bà Hà Thị Ng có đeo một chiếc vòng vàng vì đã có lần bà Ng khoe với bà về chiếc vòng vàng, còn hôm xảy ra giằng co, to tiếng giữa bà Ng với bà T, bà Ng có đeo vòng không thì bà không biết.
Tại Biên bản ghi lời khai tại cơ quan Công an phường TT, thị xã NL ngày 02 tháng 3 năm 2021; Biên bản lấy lời khai ngày 30 tháng 6 năm 2021, người làm chứng là bà Đồng Thị H trình bày:
Bà Đồng Thị H là người bán hàng đối diện với nơi xảy ra vụ việc nên được chứng kiến nội dung: Vào 08 giờ sáng ngày 28 tháng 02 năm 2021, giữa bà Điêu Thị T với bà Hà Thị Ng có xảy ra to tiếng, trong quá trình cãi nhau, hai người có cầm tay nhau và giằng co. Một lúc sau bà Đồng Thị H thấy bà D1(không rõ họ tên cụ thể) cúi xuống nhặt một vật gì đó rồi đi nhanh vào nhà. Bà Đồng Thị H không nhìn rõ bà D1 nhặt vật gì cụ thể, không rõ kích thước, màu sắc. Ngoài ra, bà H còn khai thêm bà chỉ thấy bà T cầm tay bà Ng, còn trên tay bà Ng có vàng hay không và có bị rơi vòng vàng hay không thì bà không biết.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 30 tháng 6 năm 2021, người làm chứng là ông Vũ Quốc K trình bày:
Vào khoảng 08 giờ ngày 28 tháng 02 năm 2021, ông có thấy bà Hà Thị Ng và bà Điêu Thị T cãi nhau dẫn đến giằng co. Bà T nắm tay bà Ng kéo ra ngoài đường. Do hai bà cãi nhau bằng tiếng dân tộc Thái nên ông không biết hai người cãi nhau về vấn đề gì nên ông đi vào nhà. Khoảng 15 phút sau ông có nghe thấy mọi người nói do hai bà kéo tay nhau, giằng co nên bà Ng bị rơi mất 01 chiếc vòng vàng đeo tay. Ông Vũ Quốc K khẳng định ông thường xuyên nhìn thấy bà Hà Thị Ng đeo vòng vàng trên tay và không nhìn thấy ai nhặt được chiếc vòng của bà Ng làm rơi.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 15 tháng 9 năm 2021, những người làm chứng là Điêu Thị D2 và Điêu Thị T1 có lời khai với nội dung: Sáng ngày 28 tháng 02 năm 2021, các bà đều thấy bà Ng và bà T cãi nhau và thấy bà T kéo tay bà Ng, ngoài ra không thấy ai nhặt được vật gì.
Tại Biên bản làm việc ngày 05 tháng 3 năm 2021 và Biên bản lấy lời khai ngày 25 tháng 6 năm 2021, ông Ngô Thế Gi là chủ cửa hàng vàng bạc GN trình bày: Khoảng tháng 12 năm 2020 ông có bán cho bà Hà Thị Ng 01 chiếc vòng vàng, loại vòng vàng bọc xi có trọng lượng vàng là 02 chỉ loại vàng 24K (99%) trị giá 11.150.000 đồng (Mười một triệu một trăm năm mươi ngàn đồng), nhưng không viết hoá đơn, không cập nhật vào sổ bán hàng hàng ngày. Ông Ngô Thế Gi xác định mảnh vòng gãy có ký hiệu “KDT” và dập chìm chữ “ Thức” do cơ quan công an thu giữ được là do cơ sở của ông bán ra cho khách, nhưng không xác định được là bán cho ai do không có hoá đơn.
Tại Báo cáo kết quả xác minh ngày 13 tháng 3 năm 2021 của Công an phường TT thị xã NL có nêu các nội dung:... “... Việc bà Ng bị mất vàng do giằng co với bà T, bà T không biết trên tay bà Ng có đeo vòng vàng và bà T không biết bà Ng bị rơi khi nào. Vì vậy không đủ cơ sở để kết luận bà T có liên quan đến việc bà Ng bị mất vàng.” Và ... “...Bà Ng bị mất tài sản là 01 vòng tay bằng vàng, chiếc vòng trên trước thời điểm mất và sau khi mất không có ai nhìn thấy và chưa rõ ai nhặt được, ngày 12 tháng 3 năm 2021 bà Hà Thị Ng có làm đơn xin rút đơn trình báo...”... “ qua quá trình làm việc khai thác và lấy lời khai của những người chứng kiến, không ai nhìn thấy bà D1 nhặt được vòng đeo tay bằng vàng của bà Ng...”.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã NL đã quyết định:
Căn cứ các Điều 584; 585; 589 Bộ luật dân sự
Căn cứ các Điều 26; 35; 39; 147; 271; 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị Ng, buộc bà Điêu Thị T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Hà Thị Ng số tiền là 8.990.000 đồng (Tám triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng) Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí; lãi suất chậm thi hành án, quyền về thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 29 tháng 9 năm 2021, nguyên đơn bà Hà Thị Ng kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị xác định bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và buộc bà D1 phải trả lại chiếc vòng vàng đã nhặt được; buộc bà Điêu Thị T phải bồi thường cho nguyên đơn 20 triệu đồng, tiền bồi thường danh dự, nhân phẩm. Yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất.
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, bị đơn bà Điêu Thị T có đơn kháng cáo không nhất trí với nội dung quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo là bà Điêu Thị T giữ nguyên nội dung kháng cáo không nhất trí bồi thường theo quyết định của bản án sơ thẩm;
người kháng cáo là bà Hà Thị Ng giữ nguyên nội dung kháng cáo buộc bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 phải trả lại phần bị mất của chiếc vòng vàng vì bà D1 là người nhặt được. Không nhất trí về việc Toà án cấp sơ thẩm buộc bà Điêu Thị T phải bồi thường 8.990.000 đồng mà yêu cầu bà T phải bồi thường 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) tiền bồi thường danh dự, nhân phẩm cho bà Hà Thị Ng do bị bà T chửi mắng giữa nơi đông người. Buộc bà Điêu Thị T bồi thường số tiền 3.000.000 đồng là tiền thu nhập bị mất của bà Hà Thị Ng do phải đi lại khiếu kiện không kinh doanh được.
Các đương sự không ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì tại phiên toà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh YB có ý kiến: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm. Thủ tục phiên tòa đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật định và hợp lệ. Về nội dung vụ án, qua nghiên cứu hồ sơ Viện kiểm sát nhận thấy: Nội dung kháng cáo của nguyên đơn bà Hà Thị Ng về việc yêu cầu bà Điêu Thị T phải bồi thường tổn thất về tinh thần; Bồi thường tiền thu nhập thực tế bị mất do đi khởi kiện và nội dung kháng cáo yêu cầu Toà án buộc bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 phải hoàn trả chiếc vòng vàng bị mất là không có căn cứ. Nội dung kháng cáo của bị đơn bà Điêu Thị T về việc không nhất trí bồi thường cho bà Hà Thị Ng là không có cơ sở. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã NL, tỉnh YB.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn và bị đơn mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, lời trình bày, tranh luận của các đương sự. Xét kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Toà án cấp sơ thẩm xác định vụ án thuộc quan hệ tranh chấp kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là đúng. Toà án cấp sơ thẩm cũng đã xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn, bị đơn; xác định đúng thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định của các Điều 26; 35 và 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Đơn kháng cáo của các đương sự làm trong thời hạn kháng cáo, đúng, đủ về hình thức và nội dung. Nên kháng cáo của các đương sự là hợp lệ.
Đối với việc xác định bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 là người làm chứng trong vụ án là chưa chính xác. Nhưng trong nội dung bản án sơ thẩm đã đánh giá về quyền lợi, nghĩa vụ của bà D1 nên sai sót trong xác định tư cách người tham gia tố tụng không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại tư cách tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 cho phù hợp.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Theo lời khai của các đương sự thì vào khoảng 08 giờ ngày 28 tháng 02 năm 2021, bà Điêu Thị T có nắm vào cổ tay trái của bà Hà Thị Ng để kéo đi do hai người có tranh chấp trong việc thanh toán tiền sửa xe đạp điện của bà Điêu Thị T bị hỏng. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, bà Hà Thị Ng có đơn trình báo bị mất chiếc vòng tay bằng vàng.
Cơ quan công an phường TT, thị xã NL có thu giữ được 01 mảnh vòng tay bằng vàng tại vị trí bà Hà Thị Ng và bà Điêu Thị T co kéo nhau trước đó và đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ nội dung vụ việc. Tại Báo cáo kết quả xác minh ngày 13 tháng 3 năm 2021 của Công an phường TT thị xã NL đã kết luận “... Việc bà Ng bị mất vàng do giằng co với bà T, bà T không biết trên tay bà Ng có đeo vòng vàng và bà T không biết bà Ng bị rơi khi nào. Vì vậy không đủ cơ sở để kết luận bà T có liên quan đến việc bà Ng bị mất vàng.” Và ... “Bà Ng bị mất tài sản là 01 vòng tay bằng vàng, chiếc vòng trên trước thời điểm mất và sau khi mất không có ai nhìn thấy và chưa rõ ai nhặt được, ngày 12 tháng 3 năm 2021 bà Hà Thị Ng có làm đơn xin rút đơn trình báo...”... “ qua quá trình làm việc khai thác và lấy lời khai của những người chứng kiến, không ai nhìn thấy bà D1 nhặt được vòng đeo tay bằng vàng của bà Ng...”.
Nội dung này thể hiện không có tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh việc bà Điêu Thị T kéo tay bà Hà Thị Ng dẫn đến làm gãy chiếc vòng vàng.
[2.2]. Theo lời khai của bà Hà Thị Ng thì mảnh vòng vàng do cơ quan công an phường TT thu giữ được là một phần của chiếc vòng tay bằng vàng của bà đang đeo trên tay trái khi giằng co với bà Điêu Thị T. Tuy nhiên, lời khai của bà Ng về việc có đeo vòng vàng khi hai người giằng co nhau không được bà Điêu Thị T công nhận. Cũng không có tài liệu, chứng cứ hay người làm chứng nào thể hiện ngày 28 tháng 02 năm 2021 bà Hà Thị Ng có đeo vòng vàng trên tay.
Nên không có cơ sở để khẳng định tại thời điểm bà Điêu Thị T kéo tay bà Hà Thị Ng thì bà Hà Thị Ng có đeo vòng vàng hay không.
[2.3]. Theo lời khai của Ông Ngô Thế Gi là chủ cửa hàng vàng bạc GN khẳng định: “Khoảng tháng 12 năm 2020 ông có bán cho bà Hà Thị Ng 01 chiếc vòng vàng, và xác định mảnh vòng gãy có ký hiệu “KDT” và dập chìm chữ “ Thức” do cơ quan công an phường TT thị xã NL thu giữ là do cơ sở của ông bán ra cho khách, nhưng không xác định được là bán cho ai do không có hoá đơn”. Người làm chứng là ông Vũ Quốc K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 khẳng định bà Hà Thị Ng có một chiếc vòng vàng nhưng cũng không khẳng định ngày 28-02-2021 bà Hà Thị Ng có đeo vòng hay không; không khẳng định mảnh vòng vàng do công an phường TT thị xã NL thu giữ là của chiếc vòng bà Ng thường đeo.
Vì vậy không có căn cứ để xác định mảnh vòng vàng đã thu giữ được là một phần của chiếc vòng vàng bà Hà Thị Ng bị gãy.
[2.3]. Theo khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự thì: “ Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Trong quá trình thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ, Toà án cấp sơ thẩm đã thu thập các tài liệu, chứng cứ tại công an phường TT thị xã NL; đã làm rõ các nội dung có liên quan với cơ sở vàng bạc GN là nơi chế tác, kinh doanh vàng cũng như thu thập lời khai của những người làm chứng theo lời khai và yêu cầu của các đương sự. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm đã được thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định tại chương VII của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được đều không thể hiện rõ việc bà Hà Thị Ng có bị mất chiếc vòng vàng hay không và việc mất chiếc vòng vàng (Nếu có) có phải là do hành vi của bà Điêu Thị T trực tiếp gây ra hay không. Ngoài ra các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ hay có yêu cầu triệu tập người làm chứng khác. Nên việc Toà án cấp sơ thẩm nhận định việc bà Điêu Thị T kéo tay bà Hà Thị Ng dẫn đến bị mất chiếc vòng bằng vàng 24k là không có cơ sở. Vì vậy không có căn cứ để khẳng định bà Điêu Thị T đã gây ra thiệt hại cho bà Hà Thị Ng.
Việc Toà án cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị Ng, buộc bà Điêu Thị T phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Hà Thị Ng số tiền là 8.990.000 đồng là không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.
[3]. Về nội dung kháng cáo:
[3.1]. Về nội dung kháng cáo của bị đơn: Với những nhận định đã nêu trên, thấy rằng không có căn cứ thể hiện bà Điêu Thị T có lỗi trong việc bà Hà Thị Ng bị gãy và mất vòng vàng đeo trên tay. Nên việc kháng cáo của bị đơn, bà Điêu Thị T là có cơ sở. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 308 và khoản 1 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, bà Điêu Thị T để sửa bản án sơ thẩm số: 01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã NL theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3.2]. Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn:
Với các tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án thể hiện: Người làm chứng là bà Đồng Thị H khai có nhìn thấy bà Nguyễn Thị Thuỳ D1 đi đến vị trí bà Điêu Thị T và bà Hà Thị Ng cãi cọ, lôi kéo nhau và có “...cúi xuống nhặt một vật gì đó rồi đi nhanh vào nhà. Bà Đồng Thị H không nhìn rõ bà D1 nhặt vật gì cụ thể, không rõ kích thước, màu sắc. Ngoài ra, bà H còn khai thêm bà chỉ thấy bà T cầm tay bà Ng, còn trên tay bà Ng có vàng hay không và có bị rơi vòng vàng hay không thì bà không biết”. Ngoài ra không có người làm chứng khác hay tài liệu, chứng cứ gì thể hiện bà D1đã nhặt được chiếc vòng vàng nêu trên. Vì vậy việc nguyên đơn cho rằng bà D1nhặt được vòng vàng là suy đoán mà không có chứng cứ cụ thể. Vì vậy bản án sơ thẩm nhận định không có căn cứ để buộc bà D1phải trả lại chiếc vòng vàng do được hưởng lợi không có căn cứ pháp luật là chính xác. Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới, không đề nghị triệu tập thêm người làm chứng để chứng minh cho nội dung kháng cáo này. Nên không có chứng cứ để chứng minh nghĩa vụ hoàn trả của bà Nguyễn Thị Thuỳ D1. Do đó nội dung kháng cáo này không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Với nội dung kháng cáo buộc bà Điêu Thị T phải bồi thường danh dự, nhân phẩm và tiền thu nhập thực tế bị mất với số tiền 23.000.000 đồng do nguyên đơn đưa ra: Đây là nội dung yêu cầu mới, vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu do phía nguyên đơn đưa ra sau khi Toà án cấp sơ thẩm đã mở phiên toà xét xử vụ án nên đây là nội dung chưa được giải quyết tại cấp sơ thẩm, không thuộc phạm vi kháng cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét, giải quyết.
[4]. Về án phí: Do kháng cáo của bị đơn được chấp nhận để sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã NL. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự để xác định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm của các đương sự. Bà Điêu Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Do yêu cầu khởi kiện và kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn, bà Hà Thị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
Các nội dung khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 148; Điều 293; khoản 2 Điều 308; khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Khoản 1; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, bà Điêu Thị T; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, bà Hà Thị Ng. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số:
01/2021/TCDS-ST ngày 15 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân thị xã NL như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị Ng về việc buộc bị đơn, bà Điêu Thị T phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Hà Thị Ng số tiền là 8.990.000 đồng.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hà Thị Ng phải chịu 449.500 đồng, tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 325.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự thị xã NL theo biên lai số AA/2017/0007722 ngày 29-3-2021. Bà Hà Thị Ng còn phải nộp 124.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hà Thị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự thị xã NL theo biên lai số AA/2021/0001016 ngày 07-10-2021. Bà Hà Thị Ng đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Bà Điêu Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm. Được hoàn trả số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự thị xã NL theo biên lai số AA/2021/0001003 ngày 01- 10-2021.
Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 15/2021/DS-PT
Số hiệu: | 15/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Yên Bái |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về