Bản án về tranh chấp khoảng không trên đất số 121/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 121/2023/DS-ST NGÀY 04/07/2023 VỀ TRANH CHẤP KHOẢNG KHÔNG TRÊN ĐẤT

Ngày 04 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 314/2022/TLDS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp khoảng không trên đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2023/QĐXX - DSST ngày 27 tháng 4 năm 2023; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 84/ 2023/ QĐST-TNPT ngày 17/5/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 111/ 2023/ QĐST- HPT ngày 15/6/2023 giữa:

Nguyên đơn : Mai Thị Nhật L, Sinh năm: 1967; Ông Trần Anh T, sinh năm 1962; Cùng ĐKHKTT: Số 14 Ngõ 409 K, phường N, quận B, Hà Nội. Bà L, ông T ủy quyền cho bà Mai Thị Diễm H, sinh năm 1980; Nơi ở: 375 K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. (Theo giấy ủy quyền ngày 13/12/2022) (Bà H có mặt)

Bị đơn : Nguyễn Thị T1, sinh năm 1963; Địa chỉ: Căn hộ 302 nhà 5 tầng Khu tập thể BDN- ngõ 409 phố K, phường N, quận B, Hà Nội (Bà T1 có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Gia đình ông Trần Anh T và bà Mai Thị Nhật L là chủ sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở tại địa chỉ số 14 Ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC235231, số vào sổ cấp GCN: CH000149 do Uỷ ban nhân dân quận B, thành phố Hà Nội cấp ngày 24/06/2010, diện tích đất ở sử dụng riêng: 82,2m2. Năm 2015, ông T và bà L có nhu cầu xây dựng lại phần diện tích 37,5m2 phía sau của căn nhà trên thửa đất nêu trên.

Ngày 17/12/2015, ông T, bà L được Uỷ ban Nhân Dân quận B cấp Giấy phép xây dựng số 765/GPXD-UBND gồm các nội dung: Vị trí xây dựng trên thửa đất có diện tích 82,2m2 tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. Quy mô công trình: Nhà ở 3 tầng tổng diện tích xây dựng 92,5m2.

Sau khi tháo dỡ ngôi nhà cũ, ông T và bà L phát hiện thấy chủ sở hữu căn hộ liền kề với thửa đất phía bên khu Khu tập thể BDN- Ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội đã lấn chiếm khoảng không phía trên thửa đất của gia đình, cụ thể là bà Nguyễn Thị T1 - chủ sở hữu căn hộ số 302 nhà 5 tầng Khu tập thể BDN- ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội đã lấn chiếm khoảng không của nhà 14/409 K, cụ thể là từ lô gia của căn hộ đua ra một lồng sắt lưới B40 chứa cục nóng điều hòa. Lồng sắt này nằm trọn trong phần không gian của nhà 14/409 khiến cho công trình xây dựng của gia đình ông T và bà L không thể xây tường bao phía sau nhà và không đổ được bê tông phần dầm mái.

Kể từ khi phát hiện ra việc lấn chiếm khoảng không nêu trên, ông T, bà L đã thông qua người đại diện theo uỷ quyền nhiều lần gửi đơn yêu cầu UBND phường N tổ chức xử lý và yêu cầu các chủ sở hữu căn hộ vi phạm nêu trên tháo dỡ phần lấn chiếm. Tuy nhiên, sau nhiều lần UBND phường N có tổ chức các cuộc họp tại tổ dân phố nhằm vận động các gia đình hòa giải nhưng bà Nguyễn Thị T1 không hợp tác chấp hành. Các công trình của bà H1 đã vi phạm điều 12 Luật Xây dựng 2014; Điều 174, 175 Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông T và bà L.

Ông Trần Anh T và bà Mai Thị Nhật L đề nghị Toà án giải quyết các vấn đề sau đây để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Buộc bà Nguyễn Thị T1 – chủ sở hữu căn hộ 302 khu tập thể 5 tầng BDN, ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội phải tháo dỡ toàn bộ phần lồng sắt lấn chiếm, trả lại khoảng không trên thửa đất tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội thuộc sở hữu của gia đình ông T và bà L.

Bị đơn - bà Nguyễn Thị T1 trình bày: Bà Nguyễn Thị T1 là chủ căn hộ 302 nhà 5 tầng khu tập thể BDN. Căn hộ chung cư anh trai bà T1 là Nghiêm Xuân Lượng được phân về ở từ năm 1991, đến ngày 27/12/2016 thì sang tên cho bà T1 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 54,38m2. Bà Nguyễn Thị T1 khẳng định diện tích căn hộ của bà T1 hiện tại đang sử dụng đúng như bà T1 được cấp giấy chứng nhận. Sau khi nhận nhà thì bà T1 có làm chuồng cọp phía sau ban công từ năm 1991 để bảo vệ trộm cắp và tài sản của gia đình. Phần lồng sắt này không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T1 nhưng nằm trong phần đất lưu không của tập thể. Bà T1 không nắm được phần đất lưu không cụ thể bao nhiêu mét. Phần đất ở dưới chung cư đều cách các hộ dân tầm 2,5m.Tài liệu chứng cứ để chứng minh lồng sắt nhà bà T1 nằm trên đất lưu không của khu tập thể là giấy chứng nhận của bà T1, ngoài ra bà T1 không có tài liệu nào khác. Khi nhà ông T và bà L xây nhà lên đã xây sát vào mái nhà 5 tầng của khu tập thể. Do vậy đã xây sát lên phần lồng sắt nhà bà T1 và yêu cầu gia đình bà T1 tháo bỏ lồng sắt. Ông T và bà L xây vào phần đất lưu không của chung cư chứ không xây chiếm vào phần đất bà T1 được cấp giấy chứng nhận. Đối với nhà ông T và bà L trước đây được phân 35m2 sau đấy lấn chiếm phần phía sau là 66m2 và chiếm nốt 15,7m2 là phần đất lưu không của khu tập thể. Khi nhà ông T bắt đầu khởi công xây dựng, bà T1 đã có đơn kiến nghị, UBND phường đã yêu cầu gia đình ông T bà L xây lùi vào để trả cho bà con khoảng không nhưng gia đình ông T không đồng ý và cho rằng giấy chứng nhận được cấp đến đâu thì ông T bà L có quyền xây đến đó, do vậy UBND phường không can thiệp được.

Bà Nguyễn Thị T1 đã nhận được kết quả đo đạc của gia đình bà và gia đình nhà ông T, bà L. Đối với kết quả đo đạc bà T1 không ý kiến. Phần diện tích thực tế căn hộ của bà T1 hiện nay theo kết quả đo đạc là 62m2, lý do tăng hơn so với giấy chứng nhận là bà T1 có đua ra ban công phía trước là 0,6m lồng sắt. Bà T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Tòa án xem xét việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, bà L. Bà T1 đã làm đơn khiếu nại gửi các cơ quan có thẩm quyền nhưng hiện nay vẫn chưa có kết quả trả lời.

Tại phiên tòa:Nguyên đơn giữ yêu cầu khởi kiện; Bị đơn giữ nguyên ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm, Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Những người tham gia tố tụng đã được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L. Buộc gia đình bà Nguyễn Thị T1 phải tháo dỡ lồng sắt đua ra khoảng không trên đất nhà ông T, bà L.

Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật, nguyên đơn không phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tố tụng: Đơn khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết đúng theo quy định tại khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2]. Về nội dung: Ngày 24/6/2010, ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L được Uỷ ban nhân dân quận B, thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC235231, số vào sổ cấp GCN: CH000149, diện tích đất ở sử dụng riêng: 82,2m2. Năm 2015, ông T và bà L có nhu cầu xây dựng lại phần diện tích 37,5m2 phía sau của căn nhà trên thửa đất nêu trên. Ngày 17/12/2015, ông T, bà L được Uỷ ban Nhân Dân quận B cấp Giấy phép xây dựng số 765/GPXD-UBND gồm các nội dung: Vị trí xây dựng trên thửa đất có diện tích 82,2m2 tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. Quy mô công trình: Nhà ở 3 tầng tổng diện tích xây dựng 92,5m2.

[3] Về yêu cầu khởi kiện:

Ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị T1 – chủ sở hữu căn hộ 302 khu tập thể 5 tầng BDN, ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội phải tháo dỡ toàn bộ phần lồng sắt lấn chiếm, trả lại khoảng không trên thửa đất tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội thuộc sở hữu của gia đình ông T và bà L.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Công văn trả lời số 98 ngày 16/3/2023 của UBND phường N cung cấp thông tin liên quan đến phần đất lưu không giữa phần đất của gia đình ông T bà L và khu tập thể BDN: Nhà đất của gia đình ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L và khu tập thể BDNtrước đây do Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội quản lý và thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận, do vậy UBND phường không có hồ sơ quản lý đối với phần đất lưu không nêu trên.

Tại Công văn số 64 ngày 13/3/2023 của UBND quận B trả lời về việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, Phòng tài nguyên và Môi trường quận B có ý kiến: Việc lập hồ sơ, kiểm tra, đo vẽ hiện trạng, thẩm định hồ sơ bán nhà và đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của các hộ tại tập thể BDNTrung ương ngõ 409 do Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội thực hiện. UBND quận B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 235231 cho ông T bà L trên cơ sở hồ sơ do Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội lập là phù hợp với quy định tại Mục 6, Điều 6 Quyết định số 38/2005/QĐ-UB ngày 19/3/2005 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành quy trình bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang ở thuê theo NĐ 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tại Công văn số 2003/UBND-TNMT ngày 31/10/2022 ghi nhận nội dung: Năm 2015, hộ gia đình bà L, ông T đã lập hồ sơ xin phép xây dựng công trình căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở. UBND quận B kiểm tra, xem xét và cấp Giấy phép xây dựng số 765/GPXD ngày 17/12/2015 cho hộ ông T bà L là phù hợp với quy định tại Mục 3, Điều 103 Luật xây dựng năm 2014. Diện tích đất của hộ bà L, ông T không chồng lấn vào diện tích của các hộ liền kề, không xâm phạm vào công trình ngầm nào khác.

Trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các căn hộ tại Tập thể BDNTW ngõ 409 K có ghi nhận phần đất lưu không xung quanh khu tập thể. Nhưng tại biên bản bàn giao nhà ở, đất ở đối với nhà 5 tầng Khu tập thể BDNngõ 409 K lập ngày 23 tháng 6 năm 2006 thì hồ sơ đất của khu nhà đã bị thất lạc nên không xác định được diện tích khoảng lưu không của khu nhà là bao nhiêu.

Tại phiên tòa cũng như trong các bản khai, phía bị đơn không có tài liệu nào để làm rõ được khoảng lưu không của khu tập thể là bao nhiêu mét.

Tại phiên tòa ngày 17/5/2023, Hội đồng xét xử đã ra Quyết định tạm ngừng phiên tòa để chờ văn bản trả lời của UBND quận B và Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội, trả lời theo phiếu chuyển đơn của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị T1. Đến thời điểm xét xử, bà T1 xuất trình Công văn số 661/QLPTN-TNBN ngày 29/5/2023 của Công ty TNHH MTV Quản lý và phát triển nhà Hà Nội và Công văn số 1073/UBND-QLĐT ngày 20/6/2023 của UBND quận B có nội dung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy phép xây dựng cho cho ông T bà L là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

Tại Công văn số 285 ngày 24/5/2023 của Phòng quản lý đô thị UBND quận B có nội dung: Việc cấp giấy phép xây dựng số 765 ngày 17/12/2015 cho hộ ông T, bà L tại địa chỉ số 14 ngõ 409 K là phù hợp với quy định tại Mục 3 Điều 103 Luật Xây dựng 2014. Diện tích đất của ông T bà L không lấn vào diện tích các hộ liền kề, không xâm phạm vào công trình ngầm nào khác.

Xét trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được UBND quận B cấp cho ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông T, bà L là có căn cứ được chấp nhận. Buộc bà Nguyễn Thị T1 – chủ sở hữu căn hộ 302 khu tập thể 5 tầng BDN, ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội phải tháo dỡ toàn bộ phần lồng sắt lấn chiếm, trả lại khoảng không trên thửa đất tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội cho gia đình ông T và bà L.

Trong các bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn là bà Nguyễn Thị T1 đã khẳng định lồng sắt đua ra phía ngoài không nằm trong diện tích đất gia đình bà T1 được cấp giấy chứng nhận, phần lồng sắt đua ra nằm trên đất lưu không của khu tập thể, cụ thể đất lưu không của khu tập thể là bao nhiêu mét và tài liệu chứng cứ chứng minh bà T1 không biết. Bà T1 có đơn phản tố đề nghị Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà UBND quận B đã cấp cho ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L trong khi lồng sắt đua ra phía ngoài không nằm trong diện tích đất gia đình bà T1 được cấp giấy chứng nhận nên bà T1 không có quyền phản tố. Vì vậy Tòa án đã không thụ lý yêu cầu phản tố của bà.

[4]. Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5].Về án phí: Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 300.000 đồng. Ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0002835 ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B.

[6]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các căn cứ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng vào khoản 9 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 144; Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng Điều 174, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 - Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L đối với bà Nguyễn Thị T1 về việc tranh chấp khoảng không trên đất.

2. Buộc bà Nguyễn Thị T1 – Chủ sở hữu căn hộ 302 khu tập thể 5 tầng BDN, ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội phải tháo dỡ toàn bộ phần lồng sắt lấn chiếm ngoài diện tích được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trả lại khoảng không trên thửa đất tại địa chỉ số 14 ngõ 409 phố K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội thuộc sở hữu của gia đình ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4.Về án phí: Bà Nguyễn Thị T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 300.000 đồng. Ông Trần Anh T, bà Mai Thị Nhật L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0002835 ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp khoảng không trên đất số 121/2023/DS-ST

Số hiệu:121/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:04/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về