Bản án về tranh chấp hụi và vay tài sản số 42/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 42/2022/DS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI VÀ VAY TÀI SẢN

Ngày 28/9/2022, tại trụ sở TAND huyện Vị Thủy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2021/TLST-DS, ngày 25/5/2021 về tranh chấp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-DS, ngày 18/4/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 82/2022/QĐST-DS ngày 16/5/2022, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 117/2022/QĐST-DS ngày 01/6/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số 100/TB-TA ngày 19/9/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1965.

Địa chỉ: ấp 3, xã Vĩnh T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Đoàn Văn P, sinh năm 1945.

Địa chỉ: ấp 3, xã Vĩnh T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Ngô Thị Kim A, sinh năm 1957.

Địa chỉ: ấp 3, xã Vĩnh T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

3.2. Ông Đoàn Cải L, sinh năm 1986 Địa chỉ: phường B, quận Bình T, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/5/2021 nguyên đơn bà Võ Thị Kim H trình bày:

Vào ngày 02/09/2014 bà có mở dây hụi 5.000.000 đ/tháng, 01 tháng khui 01 lần, hụi gồm có 22 người tham gia, ông P tham gia 02 phần.

- Phần hụi thứ nhất ông P đóng được 06 lần hụi sống với số tiền 22.740.000 đ, tới lần thứ 07 ông P kêu hốt 1.100.000 đ, được số tiền là 86.000.000 đ, ông P đóng hụi chết được 10 lần, ông P còn nợ lại 05 lần số tiền là 25.000.000 đ.

- Phần hụi thứ hai ông P đóng được 07 lần hụi sống với số tiền 23.840.000 đ, lần thứ 08 ông P kêu hốt 1.100.000 đ, được số tiền 87.100.000đ. Ông P đóng được 09 lần hụi chết rồi không đóng nữa, ông P còn nợ 05 lần hụi chết số tiền là 25.000.000 đ.

Dây hụi này đã mãn ngày ngày 02/7/2016.

- Năm 2015 ông P có vay của bà 5.000.000 đ đến nay chưa trả. Bà cho vay lần đầu 2.000.000 đ, lần sau 2.500.000đ, tiền lãi còn nợ là 500.000 đ. Cho vay không có làm giấy tờ, lãi suất thỏa thuận là 2.000đ/1.000.000đ/ngày. Ông P có trả cho bà được 1.000.000 đ tiền lãi.

Bà có đòi nhiều lần nhưng ông P không trả cho bà. Nay bà yêu cầu ông P và bà Kim A trả cho bà số tiền 55.000.000 đ.

Tại biên bản ghi lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Đoàn Văn P trình bày:

Ông không tham gia hụi do bà H làm chủ. Ông không có đóng hụi, hốt hụi và cũng không có nhận tiền hụi của bà H. Ông xác định chữ ký hốt hụi trong giấy hụi do bà H cung cấp không phải của ông. Ông không yêu cầu giám định chữ ký. Trong nhà ông chỉ có con ông là Đoàn Cải L tham gia hụi của bà H. Nhưng hiện tại L đã ở riêng, không còn ở chung với gia đình ông. Nên ông không đồng ý trả tiền hụi theo yêu cầu của bà H. Hộ khẩu của Cải L hiện ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng ông không biết cụ thể.

Trước giờ bà H không có đòi ông lần nào.

Ông thừa nhận có nợ của bà H số tiền 5.000.000 đ. Nay ông thống nhất trả cho bà H số tiền 5.000.000 đ. Không đồng ý yêu cầu trả tiền hụi.

Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim A trình bày:

Bà không tham gia hụi do bà H làm chủ. Bà không có đóng hụi, hốt hụi và cũng không có nhận tiền hụi của bà H. Trong nhà bà chỉ có con bà là Đoàn Cải L tham gia hụi của bà H. Nhưng hiện tại L đã ở riêng, không còn ở chung với gia đình bà. Bà xác định không có liên quan gì đến việc chơi hụi của bà H nên bà không đồng ý trả tiền hụi theo yêu cầu của bà H. Hộ khẩu của Cải L hiện ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng bà không biết cụ thể.

Bà không có vay tiền của bà H, phần ông P vay bà không biết.

Đối với ông Đoàn Cải L đã được triệu tập hợp lệ (do cha ruột của ông là Đoàn Văn P nhận thay) nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án không có lý do.

Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã nộp bản sao chứng minh nhân dân, bản tự khai, bản sao sổ hộ khẩu, xác nhận thông tin cư trú, giấy hụi, giấy nhận tiền hụi. Các bị đơn không nộp tài liệu chứng cứ nào.

Tại phiên tòa, bà Võ Thị Kim H yêu cầu ông P trả số tiền 53.000.000 đ, gồm nợ hụi 50.000.000đ và tiền vay 3.000.000 đ. Ông Đoàn Văn P không thừa nhận nợ hụi. Thống nhất trả tiền vay còn nợ là 3.000.000 đ, ông không yêu cầu gì về tiền lãi đã đóng.

Kiểm sát viên phát biểu về việc thụ lý giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, cũng như ý thức chấp hành pháp luật của các bên đương sự là đúng pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về án phí, chi phí giám định các đương sự phải chịu theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về xác định quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị Kim H yêu cầu ông Đoàn Văn P trả số tiền nợ hụi là 50.000.000 đ và tiền vay cò nợ là 3.000.000 đ. Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy thụ lý quan hệ tranh chấp là “tranh chấp hụi” là chưa đầy đủ. Do đó Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật là “tranh chấp hụi và vay tài sản”.

[2]. Về xác định thẩm quyền: Ông Đoàn Văn P có địa chỉ cư trú tại ấp 3, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang nên Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về việc vắng mặt của đương sự: Bà Ngô Thị Kim A và ông Đoàn Cải L vắng mặt tại phiên tòa. Đối với bà Ngô Thị Kim A đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Đối với ông Đoàn Cải L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do ông Đoàn Văn P trình bày. Nhưng ông Đoàn Văn P và bà Võ Thị Kim H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của ông Đoàn Cải L. Tòa án đã gửi thông báo cho ông Đoàn Văn P là cha ruột của ông Đoàn Cải L nhận thay và thông báo cho ông Đoàn Cải L tham gia tố tụng nhưng ông Đoàn Cải L vắng mặt. Xét thấy việc tham gia hụi và nhận tiền theo hồ sơ thể hiện không có liên quan đến ông Đoàn Cải L. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Ngô Thị Kim A và ông Đoàn Cải L theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về nội dung khởi kiện:

Nguyên đơn bà Võ Thị Kim H yêu cầu ông Đoàn Văn P trả số tiền hụi chết còn nợ của 02 chân hụi tháng 5.000.000 đ là 50.000.000 đ, trong đó mỗi chân ông Đoàn Văn P còn nợ 05 lần hụi chết tương đương số tiền 25.000.000 đ và số tiền vay 5.000.000 đ. Để chứng minh cho yêu cầu của mình bà Võ Thị Kim H nộp cho Tòa án danh sách hụi và giấy ký nhận tiền hốt hụi, do ông Đoàn Văn P ký. Trong quá trình giải quyết vụ án ông Đoàn Văn P không thừa nhận chữ ký trong tờ giấy nhận tiền hụi và cho rằng ông không tham gia hụi do bà Võ Thị Kim H làm chủ. Mà người tham gia hụi là con của ông Đoàn Cải L.

Đối với số tiền vay 5.000.000 đ ông P thừa nhận nên bà H không phải chứng minh. Trong quá trình giải quyết vụ án ông P đã trả cho bà H 2.000.000 đ hiện còn nợ lại 3.000.000 đ. Đối với tiền lãi đá đóng ông P không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ vào kết luận giám định số 215/KL-KTHS ngày 14/9/2022 của Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an về việc giám định chữ ký trong tờ giấy nhận tiền hụi thì chữ ký trong giấy nhận tiền hụi và các mẫu so sánh do ông Đoàn Văn P ký thì do cùng một người ký tên. Do đó có đủ cơ sở để khẳng định chữ ký nhận tiền hụi là do ông Đoàn Văn P ký nên lời trình bày của ông Đoàn Văn P về việc không phải chữ ký của ông là không có cơ sở chấp nhận.

Đối với tên trong danh sách hụi ghi là “chị 2 P” bà Võ Thị Kim H cho rằng bà ghi vậy là do ông Đoàn Văn P và bà Ngô Thị Kim A cùng hỏi bà tham gia hụi, việc đóng hụi là do ông Đoàn Văn P trực tiếp đóng hụi cho bà và ông Đoàn Văn P là người hốt hụi và nhận tiền hụi. Đối với tên “Cải L” ghi trong giấy nhận tiền hụi là do bà nghe ông Đoàn Văn P nói chơi dùm ông Cải L nên bà ghi cho dễ nhớ chứ ông Đoàn Cải L không có giao dịch hụi với bà và bà cũng không gặp ông Đoàn Cải L lần nào.

Xét thấy theo lời trình bày của bà Võ Thị Kim H thì việc giao dịch hụi đều do ông Đoàn Văn P trực tiếp giao dịch với bà, bà Ngô Thị Kim A và ông Đoàn Cải L không trực tiếp giao dịch với bà lần nào và căn cứ vào giấy nhận tiền hụi nên bà khởi kiện yêu cầu ông Đoàn Văn P có trách nhiệm trả tiền hụi chết. Hụi đã mãn từ năm 2016 và bà đã đóng hụi chết thay cho ông P để giao tiền hụi cho các người chơi khác đầy đủ. Dây hụi do bà Võ Thị Kim H mở và ông Đoàn Văn P tham gia hiện đã mãn và những người tham gia chơi hụi cũng đã thực hiện đúng thỏa thuận của dây hụi. Ông Đoàn Văn P đã hốt hụi nhưng đóng hụi chết được một thời gian thì không đóng nữa. Để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự khác và duy trì sự ổn định đối với dây hụi đã mãn thì cần buộc ông Đoàn Văn P trả lại hụi chết cho chủ hụi là bà Võ Thị Kim H.

Đối với việc ông Đoàn Văn P và bà Ngô Thị Kim A cho rằng việc chơi hụi là do ông Đoàn Cải L tham gia nhưng không chứng minh được và cũng không được bà Võ Thị Kim H thừa nhận, Căn cứ vào giấy nhận tiền hụi do ông Đoàn Văn P ký nên ông Đoàn Văn P phải có trách nhiệm trả nợ hụi. Ông Đoàn Văn P và bà Ngô Thị Kim A không cung cấp cho Tòa án địa chỉ của ông Đoàn Cải L và Tòa án cũng đã thực hiện nhiều biện pháp để thu thập địa chỉ của ông Đoàn Cải L nhưng không có kết quả nên Tòa án không thể tiến hành ủy thác lấy lời khai của ông Đoàn Cải L theo quy định. Giữa ông Đoàn Văn P, bà Ngô Thị Kim A và ông Đoàn Cải L khi phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[4]. Về án phí: áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Bị đơn phải chịu án phí tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn được nhận lại tạm ứng án phí đối với yêu cầu được Tòa án chấp nhận.

Các đương sự còn được kháng cáo theo luật định;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, 6, 26, 35, 39, 91, 147, 273, 227 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 463, 466, 471 Bộ luật dân sự 2015.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kim H. Buộc ông Đoàn Văn P có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị Kim H số tiền 53.000.000 đ (Năm mươi ba triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Về chi phí giám định chữ ký: Ông Đoàn Văn P phải nộp số tiền 5.500.000 đ (Năm triệu năm trăm ngàn đồng), bà Võ Thị Kim H đã nộp xong, phần ông P nộp trả lại cho bà H.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đoàn Văn P phải nộp số tiền 2.650.000 đ (Hai triệu sáu trăm năm chục ngàn đồng). Bà Võ Thị Kim H được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã đóng theo biên lai thu tiền số 0009667 ngày 25/5/2021 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Vị Thủy thành án phí, nhận tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi và vay tài sản số 42/2022/DS-ST

Số hiệu:42/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về