Bản án về tranh chấp hụi số 63/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 63/2021/DS-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 278/2020/TLST- DS ngày 21 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 4 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thái C, sinh năm 1989; địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Người đại diện theo ủy quyền của chị C: Chị Trương Bích T, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp N, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (Theo văn bản ủy quyền ngày 20/11/2020). (có mặt)

- Bị đơn: Bà Ngô Thị H, sinh năm 1968; địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 02/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và đại diện của nguyên đơn là chị Trương Bích T trình bày:

Chị Hoàng Thái C là chủ hụi. Bà Ngô Thị H có tham gia chơi hụi do chị C làm chủ. Khi chơi hụi các bên thỏa thuận loại hụi tháng sẽ khui 01 lần mỗi tháng và khui vào ngày mở hụi; ai bỏ hụi cao nhất của kỳ khui hụi thì sẽ được hốt hụi.

Thời gian gom tiền hụi là 05 ngày kể từ ngày khui hụi và thời gian chung (đưa cho người hốt) tiền hụi là 06 ngày, kể từ ngày hốt hụi. Bà H tham gia các dây hụi do chị C làm chủ như sau:

Dây hụi thứ nhất: Dây hụi mở 19/9/2018 âm lịch, loại hụi là 1.000.000 đồng, hụi có 26 phần, mỗi tháng khui 01 lần vào ngày 19 âm lịch. Bà H tham gia 01 phần, đã hốt 01 phần vào ngày 19/11/2018 âm lịch. Sau khi hốt thì bà H có đóng hụi chết mỗi tháng là 1.000.000 đồng, đến ngày 19/12/2019 âm lịch thì bà H không đóng hụi chết nữa. Chị C đã đóng thay cho bà H 11 lần (đến hết kỳ tháng 9 năm 2020 âm lịch) tổng số tiền là 11 triệu đồng. Hiện nay, hụi đã mãn.

Dây hụi thứ hai: Dây hụi mở ngày 29/10/2018 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, có 31 phần, mỗi tháng khui 01 lần vào ngày 29 âm lịch. Bà H tham gia 02 phần. Bà H đã hốt hết 02 phần hụi này vào ngày 29/4/2019 âm lịch và ngày 29/6/2019 âm lịch. Bà H đóng đến ngày 29/12/2019 thì không đóng tiền hụi chết nữa. Chị C đã đóng thay 11 lần (đến kỳ tháng 9 năm 2020 âm lịch) tổng số tiền là 22.000.000 đồng. Hiện nay, hụi đã mãn.

Dây hụi thứ 3: Dây hụi mở ngày 15/01/2019 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, mỗi tháng khui 01 lần vào ngày 15 âm lịch. Bà H tham gia 02 phần và đã hốt hết 02 phần vào ngày 15/02/2019 âm lịch và ngày 15/4/2019 âm lịch. Bà H đóng đến kỳ tháng 01/2020 âm lịch thì không đóng nữa. Chị C đã đóng thay 10 lần (đến kỳ tháng 9 năm 2020) tổng số tiền là 22 triệu đồng. Hụi còn hoạt động đến nay.

Do chị C đã đóng thay tiền hụi chết cho bà H nên nay chị C khởi kiện yêu cầu bà H trả số tiền hụi là 55.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Ngô Thị H trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà H vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi đã tiến hành lấy lời khai ngày 26/4/2021 thì bà H thống nhất với các ngày mở dây hụi, ngày hốt hụi và đồng ý trả với số tiền theo yêu cầu khởi kiện của chị C. Tuy nhiên, bà H cho rằng chị C không gon tiền hụi kể từ ngày xảy ra dịch bệnh nên bà không có đóng tiền hụi cho chị C.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện với số tiền 2.000.000 đồng đối với dây hụi ngày 15/01/2019 âm lịch. Nay chỉ yêu cầu bà H phải trả cho chị C tổng số tiền hụi đã đóng thay đến tháng 9 năm 2020 âm lịch là 53.000.000 đồng.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua phân tích, đánh giá các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án và tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 2.000.000 đồng; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C đòi bà H số tiền 53.000.000 đồng. Bà H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Bị đơn bà Ngô Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H.

[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của chị C xin rút một phần yêu cầu khởi kiện với số tiền 2.000.000 đồng. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 5, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 2.000.000 đồng.

[2] Về tố tụng: Chị C khởi kiện đòi tiền hụi đối với bà H. Bà H hiện cư trú tại ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên đây là tranh chấp hụi và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Chị C khởi kiện yêu cầu bà H trả số tiền hụi 53.000.000 đồng mà chị C đã đóng thay. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, chị C cung cấp tờ 03 Giấy chơi hụi được khui đầu tiên vào các ngày 29/10/2018 âm lịch, 15/01/2019 âm lịch, 19/9/2018 âm lịch. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của chị C là chị T xác định: Đối với dây hụi mở ngày 19/9/2018 âm lịch bà H tham gia 01 phần đã hốt vào ngày 19/11/2018 âm lịch, từ ngày 19/12/2019 thì bà H không đóng hụi chết nữa, chị C đã đóng thay 11 lần (đến kỳ tháng 9/2020 âm lịch) là 11.000.000 đồng. Đối với dây hụi mở ngày 29/10/2018 âm lịch, bà H tham gia 02 phần, đã hốt vào ngày 29/4/2019 âm lịch và ngày 29/6/2019 âm lịch, bà H không đóng hụi chết từ ngày 29/12/2019 và chị C đã đóng thay 11 lần (đến kỳ tháng 9/2020 âm lịch) số tiền là 22.000.000 đồng. Đối với dây hụi mở ngày 15/01/2019 âm lịch, bà H tham gia 02 phần, đã hốt vào ngày 15/02/2019 âm lịch và ngày 15/4/2019 âm lịch, bà H không đóng hụi chết từ ngày 15/01/2020 và chị C đã đóng thay 10 lần (đến kỳ tháng 9/2020 âm lịch) số tiền là 20.000.000 đồng. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 26/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi thì bà H thống nhất có tham gia các dây hụi trên cũng như thời gian không đóng tiền hụi và bà H đồng ý trả tiền hụi theo yêu cầu của chị C. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định giữa chị C và bà H có giao dịch hụi và bà H đã hốt các dây hụi trên nhưng chưa thanh toán tiền hụi chết theo yêu cầu khởi kiện của chị C.

[3.1] Bà H cho rằng, chị C không gom tiền hụi nên bà không có đóng tiền hụi chết cho chị C. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định phía chị C có gom tiền hụi nhưng bà H không đóng tiền hụi chết. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý về việc yêu cầu thanh toán tiền hụi của chị C nhưng bà H không thực hiện việc thanh toán, đồng thời nguyên đơn xác định có gom tiền hụi nhưng bà H không trả tiền hụi nên lời trình bày của bà H là không có cơ sở chấp nhận. Xét thấy, chủ hụi chỉ mang tính chất là vai trò trung gian ăn hoa hồng và có trách nhiệm gom hụi của các hụi viên trong dây hụi giao hụi lại cho người được lĩnh hụi, nên việc bà H vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ hụi và các hụi viên. Do đó, yêu cầu khởi kiện đòi tiền hụi của chị C đối với bà H là có căn cứ.

[4] Từ những lập luận, phân tích, đánh giá chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có đầy đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C cần buộc bà H trả cho cho chị C số tiền là 53.000.000 đồng theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 13, Điều 16 và Điều 30 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[5] Về án phí sơ thẩm có giá ngạch: Chị C không phải chịu án phí. Do yêu cầu khởi kiện của chị C được chấp nhận nên bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 53.000.000 đồng x 5% = 2.650.000 đồng. Chị C đã nộp tạm ứng án phí số tiền 1.375.000 đồng đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008470 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên được hoàn lại toàn bộ.

[6] Như đã phân tích, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của Kiểm sát viên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, Điều 5, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 1 Điều 13, Điều 16 và Điều 30 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thái C yêu cầu bà Ngô Thị H trả số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thái C yêu cầu bà Ngô Thị H trả số tiền 53.000.000 đồng (năm mươi ba triệu đồng).

Buộc bà Ngô Thị H trả cho chị Hoàng Thái C số tiền 53.000.000 đồng (năm mươi ba triệu đồng).

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Ngô Thị H phải nộp 2.650.000 đồng (hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Chị Hoàng Thái C đã nộp tạm ứng án phí số tiền 1.375.000 đồng (một triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008470 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên được hoàn lại toàn bộ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

816
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 63/2021/DS-ST

Số hiệu:63/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về