TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 61/2022/DS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI
Ngày 03 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràn Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 306/2021/TLST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 08/2022/QĐ-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị S, sinh năm 1983 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Ô, xã K, huyện T, tỉnh C .
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1974 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 19/5, xã K, huyện T, tỉnh C .
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1971 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 19/5, xã K, huyện T, tỉnh C .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07/7/2021 và quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị S trình bày:
Vào ngày 15/01/2018 âm lịch bà có mở dây hụi loại hụi 1.000.000 đồng, có 33 phần, một tháng khui một lần. Bà M có tham gia 01 phần, ở vị trí số 18 tên “ M– C”. Kỳ mở hụi đầu tiên bà M bỏ hụi và hốt hụi được 23.720.000 đồng, ông T, bà M ký nhận tiền. Bà M đóng hụi chết đến kỳ thứ 6 thì không đóng nữa. Hiện tại hụi đã mãn. Số tiền hụi bà M còn thiếu bà 27 phần x 1.000.000 đồng/phần = 27.000.000 đồng. Yêu cầu bà M, ông T có trách nhiệm cùng trả cho bà số tiền 27.000.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Minh T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng Thông báo thụ lý, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng bà M, ông T vẫn không có văn bản trình bày ý kiến của mình và không đến tham dự phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án.
Tại phần tranh luận bà S yêu cầu bà M, ông T có trách nhiệm trả cho bà số tiền hụi thiếu 27.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu về trình tự, thu thập chứng cứ và tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đúng theo pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S, buộc bà M, ông T trả cho bà S tiền hụi 27.000.000 đồng. Án phí sơ thẩm bà S được nhận lại, bà M, ông T phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, qua kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện tài liệu, chứng cứ, phần tranh luận, phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy rằng:
- Về tố tụng:
[1] Xét về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Trần Thị S khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị M trả tiền hụi, bị đơn có nơi cứ tại huyện Văn Thời, do đó xác định mối quan hệ pháp luật giữa các đương sự là tranh chấp hụi và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Vắng mặt của đương sự: Bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Minh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà M, ông T là đúng quy định.
- Về nội dung:
[3] Theo bà Trần Thị S trình bày ngày 15/01/2018 âm lịch bà có mở dây hụi loại hụi 1.000.000 đồng, có 33 phần, một tháng khui một lần. Bà M, ông T có tham gia 01 phần. Kỳ mở hụi đầu tiên bà M, ông T bỏ hụi và hốt hụi được 23.720.000 đồng, ông T, bà M ký nhận tiền. Bà M, ông T đóng hụi chết đến kỳ thứ 6 thì bỏ địa phương đi không đóng nữa, hiện tại hụi đã mãn. Số tiền hụi bà M, ông T còn thiếu bà 27 phần x 1.000.000 đồng/phần = 27.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà M, ông T trả cho bà số tiền hụi thiếu 27.000.000 đồng.
[4] Hội đồng xét xử thấy rằng, bà M, ông T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định pháp luật, nhưng bà M, ông T vẫn không có mặt tham gia phiên tòa và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà S. Tòa án tiến hành xác minh đối với các hụi viên như ông Nguyễn Văn T1, bà Trần Như Y xác định dây hụi bà S làm chủ hụi thì bà M có tham gia một chưng và đã hốt xong, việc đóng hụi và hốt hụi giữa các bên như thế nào thì các ông bà không biết. Như vậy việc bà S mở hụi và bà M, có tham gia hụi như bà S trình bày là thực tế có xãy ra.
[5] Bà S xác định bà M, ông T hốt hụi và đóng hụi chết đến kỳ thứ 6 thì không đóng nữa. Qua xác minh tại địa phương thì bà M, ông T đã bỏ địa phương đi khoảng 3 đến 4 năm. Như vậy lời trình bày của bà S cho rằng bà M, ông T từ khi bỏ địa phương đi đến nay không đóng hụi cho bà là có căn cứ. Thấy rằng bà M, ông T đã hốt hụi và chủ hụi đã giao đầy đủ tiền lĩnh hụi cho bà M, ông T thì bà M, ông T phải có trách nhiệm đóng hụi cho chủ hụi, thời điểm bà M tham gia chơi hụi thì bà M và ông T vẫn còn tồn tại mối quan hệ hôn nhân, bà S xác định khi bà M tham gia chơi hụi và khi nhận tiền hốt hụi thì ông T biết, đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân nên bà M và ông T có trách nhiệm cùng nhau trả. Do đó yêu cầu của bà S yêu cầu bà M, ông T trả số tiền hụi chưa đóng số tiền 27.000.000 đồng là phù hợp Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 16, 24 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường cần được chấp nhận.
[6] Phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời tại phiên tòa có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Từ những phần tích trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S, buộc bà M, ông T trả cho bà S số tiền hụi 27.000.000 đồng.
[8] Án phí sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu của bà S nên bà S được nhận lại án phí sơ thẩm đối với số tiền tạm ứng án phí, lệ phí 675.000 đồng. Bà M, ông T phải chịu án phí sơ thẩm 1.350.000 đồng theo quy định 174 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 471 Bộ luật dân sự; Điều 16, 24 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị S.
Buộc bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Minh T trả cho bà Trần Thị S số tiền 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng).
Kể từ ngày bà S có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà M, ông T không tự nguyện thi hành xong thì phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.
Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Bà Trần Thị S không phải chịu án phí, ngày 08/7/2021 bà S đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án 675.000 đồng biên lai thu số 0005140 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.
Bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Minh T phải chịu án phí 1.350.000 đồng (chưa nộp).
Án xử sơ thẩm, bà Trần Thị S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hụi số 61/2022/DS-ST
Số hiệu: | 61/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về